Điều hướng ngang

Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

Tạm giữ hơn 1,2 tấn phân bón NPK hợp quy giả.

VỚI CTY CP ĐẦU TƯ THƯƠNG MẠI ÔTÔ QUỐC TẾ VÀ CTY CP TRUYỀN THÔNG OXY DO ĐƠN VỊ MỚI ĐƯỢC CẤP GIẤY HỢP QUY CUỐI NĂM 2012 NÊN CHƯA TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ CHƯA CÓ SẢN PHẨM HỢP QUY CUNG CẤP CHO THỊ TRƯỜNG


I. Đoàn đã làm việc và yêu cầu đơn vị cam kết nếu có sản phẩm trên thị trường đoàn sẽ đề nghị thu hồi giấy phép hợp quy và khi sản xuất và có sản phẩm cung cấp ra thị trường phải thông báo cho Bộ GTVT


Thanh long có khả năng thích ứng với các đất có độ chua pH rất khác nhau, nhưng do xuất xứ từ vùng khô hạn nên pH gần trung tính trên dưới 6 sẽ thích hợp hơn cho cây. Chất lượng thanh long phụ thuộc nhiều vào phân bón, nếu chế độ bón phân giàu đạm ít kali thường cho trái có độ ngọt kém, mau hư thối, khó cất trữ và vận chuyển. Ngược lại chế độ bón phân cân đối đạm và kali hoặc giầu kali sẽ cho trái có độ ngọt cao hơn, trái cứng chắc và lâu hư thối, dễ cất trữ, vận chuyển. Tuy nhiên, chế độ phân bón tốt phải bao gồm cả việc cung cấp cân đối giữa phân hữu cơ và vô cơ; cân đối giữa các thành phần dinh dưỡng đa lượng NPK; cân đối giữa dinh dưỡng đa lượng, trung lượng và vi lượng.Cũng giống như những cây ăn quả khác, cây thanh long ở thời kỳ kiến thiết cơ bản KTCB có nhu cầu phân bón khác so với cây ở thời kỳ kinh doanh KD. Thời kỳ này cây cần được ra rễ sớm, phát triển bộ rễ tốt, làm cơ sở cho việc huy động dinh dưỡng, giúp cây sinh trưởng nhanh khỏe, sớm bước vào thời kỳ kinh doanh. Nên việc bón lót phân chuồng hoai mục, hoặc phân hữu cơ giầu humat phân hữu cơ sản xuất từ than bùn trước khi trồng là rất cần thiết. Bón lót một lượng vôi hay phân lân nung chẩy cũng là một biện pháp rất tốt và rất cần thiết, giúp điều chỉnh pH đất về giá trị thích hợp cho cây sinh trưởng như đã nói ở trên. Mặc dù phân hữu cơ và vôi cũng cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây canxi, magie, các nguyên tố vi lượng nhưng ta chỉ gọi chúng là các chất cải tạo đất. Chúng ta vẫn phải coi phân NPK là loại phân chủ yếu, cần phải cung cấp cho cây ở từng thời kỳ khác nhau.Thời kỳ KTCB cần có tỷ lệ đạm và lân cao, kali trung bình hoặc thấp, vì lúc này cây chỉ sinh trưởng thân cành và bộ rễ mà chưa cho quả. Trước khi trồng thanh long, nếu muốn cây tốt lâu bền, ta cần tạo cho cây một bồn dinh dưỡng” quanh gốc càng rộng và sâu mầu càng tốt. Tất nhiên bồn” rộng nhất cũng chỉ đến mức bề rộng dự kiến của tán cây sau này mà thôi. Trong bồn này ta bón phân hữu cơ và vôi, đồng thời trộn đều với đất. Độ sâu lớp đất trong bồn nên từ 25-30 cm. Độ pH đất trong bồn nên điều chỉnh lên khoảng 5,5-6,5. Nhưng để tránh đầu tư 1 lần gây tốn kém không cần thiết, ta có thể mở rộng bồn hàng năm tùy theo sức sinh trưởng của tán cây.Thời kỳ kinh doanh, cây vừa sinh trưởng rất mạnh, vừa ra hoa, ra trái nên cần rất nhiều dinh dưỡng. Ngoài việc phải bón phân hữu cơ và vôi hàng năm, ta còn phải bón một lượng phân NPK theo các thời kỳ khác nhau. Trong thời gian nuôi cành, tạo tán, cây cần được bón các loại phân NPK có tỷ lệ đạm cao, lân vừa phải và kali thấp. Khi cây cần phân hóa mầm hoa ta bón phân có hàm lượng đạm trung bình, lân cao và kali trung bình. Để thúc đẩy quá trình phân hóa mầm hoa và ra hoa dễ dàng người ta còn phun bổ sung loại phân bón lá có hàm lượng lân và kali cao như 6-30-30 hay MKP mono-potassium phosphate. Bước sang giai đoạn nuôi trái ta bón phân có hàm lượng đạm và kali cao, lân thấp. Để tạo thuận lợi cho bà con nông dân sử dụng phân bón đúng, vừa qua Xí nghiệp Phân bón Chánh Hưng thuộc Công ty Phân bón Miền Nam – hiệu CON Ó” đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Thanh Long – Bình Thuận xây dựng một số công thức phân bón chuyên dùng cho thanh long. Cách sử dụng loại phân chuyên này như sau:Với thanh long thời kỳ KTCB:Năm thứ nhất: hop quy, phan bon npk Bón 1kg/trụ phân khoáng hữu cơ + 0,5kg/trụ phân trung lượng TL Chánh Hưng 2 lần, vào trước khi trồng và 6 tháng sau trồng. Bón phân NPK 20-20-15 Chánh Hưng với liều 80g/trụ vào lúc 1 tháng sau trồng, và sau đó định kỳ 1 tháng/lần.Năm thứ 2: Bón 1,5kg/trụ phân khoáng hữu cơ + 1kg/trụ phân trung lượng TL Chánh Hưng 2 lần, vào đầu và cuối mùa mưa. Bón phân NPK 20-20-15 Chánh Hưng với liều 150g/trụ theo định kỳ 1 tháng/lần.Với thanh long thời kỳ KD:Bón 2kg/trụ phân khoáng hữu cơ + 1-1,5kg/trụ phân trung lượng TL Chánh Hưng 2 lần, vào đầu và cuối mùa mưa.Bón 2 loại phân chuyên dùng cho thanh long là Thanh Long 1.4 17-17-17 TL và Thanh Long 5.8 18-10-18 TL theo các thời kỳ. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho lúa vụ xuân: Nông dân tăng lợi nhuận 240.000 đồng/sào Địa điểm trình diễn là các xã Thạch Sơn, Xuân Lũng và Tiên Kiên, huyện Lâm Thao. Công thức bón phân: Ruộng mô hình sử dụng phân NPK-S Lâm Thao có bổ sung bã gíp theo quy trình bón phân khép kín. Ruộng đối chứng được bón phân theo tập quán địa phương. Kết quả thực hiện mô hình cho thấy: Cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, ít sâu bệnh hại, chỉ phải phun thuốc trừ sâu 1 lần, nhiều ruộng không phải phun thuốc, chiều cao cây lúa thấp hơn lúa ở ruộng đối chứng 10-12cm, cây cứng hơn, lá đòng đứng, thời gian sinh trưởng rút ngắn khoảng 8-10 ngày so với ruộng đối chứng. Năng suất ở ruộng lúa mô hình đạt 248kg/sào; ruộng đối chứng đạt 210kg/sào chênh lệch 38kg/sào. Trừ các chi phí, thu nhập ở ruộng mô hình đạt 578.000 đồng/sào; ở ruộng đối chứng đạt 338.000 đồng/sào hiệu quả kinh tế tăng 240.000 đồng/sào.. Cành được giâm nơi thoáng mát khoảng 10 - 15 ngày cho ra rễ hoặc có thể đem trồng thẳng không qua giai đoạn giâm cành, phân bón lá cao cấp TN GROW và TN GREEN của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây Nguyên... Để đảm bảo đủ phân bón cung cấp trong nước với giá cả hợp lý cho sản xuất nông nghiệp 2013, tăng 50.000 tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Trong thời gian tới công ty tiếp tục đầu tư chiều sâu, giảm công chăm bón và tăng thu nhập do lúa đạt năng suất cao và chất lượng tốt. Nếu các nhà máy tiếp tục duy trì sản xuất như trong sáu tháng qua, phân bón XK từ đầu năm đến nay đã tăng rất mạnh.


Phân bón Văn Điển thau chua, rửa mặn, bồi bổ đất Việt Nam” CÔNG TY CP PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN - Đơn vị đạt 4 danh hiệu anh hùng - Giải thưởng tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO - DN Phân bón duy nhất đạt TOPTEN Thương hiệu Việt 2011 - TOPTEN Sản phẩm vàng Việt Nam 2012 - Địa chỉ: Đường Phan Trọng Tuệ, huyện Thanh Trì, Hà Nội - Điện thoại: 043.688.4489 - Fax: 043.688.4277 - Website: vafco.vn. Bức tranh đen tốiThật buồn khi một DN đầu đàn như Đầu trâu Bình Điền mà các nhân viên trụ cột cứ lần lượt ra đi, bắt đầu từ Trưởng phòng Kinh doanh- một vị trí đầu não quyết định doanh số bán hàng, tiếp đến Trưởng phòng Tiếp thị rồi sau chót đến kế toán. Tất cả những cuộc chia tay đều bịn rịn vì họ đã có hơn chục năm chung lưng đấu cật, cống hiến tài trí, sức lực hết mình để gầy dựng nên một thương hiệu hàng đầu của ngành phân bón VN. Thế nhưng tình thế buộc họ phải chia tay vì thu nhập giảm theo doanh số và Cty của họ khó mà trụ vững được. Vết thương về lỗ lã năm ngoái quá nặng và hy vọng phục hồi vào năm 2009 này đang dần tan thành mây khói vì giá lúa, cà phê, giá phân ngoại nhập quá rẻ nên sản lượng bán ra cứ đuối dần.Không chỉ Bình Điền mà tất cả các đại gia phân bón đều khốn khó. Nói về chất lượng phân bón thì chưa thương hiệu nào sánh với Việt- Nhật, thế nhưng sản lượng bán ra năm nay của họ cũng chỉ gần bằng 70% so với các năm trước. Cty Phân bón Miền Nam có một hệ thống XN, được đầu tư hiện đại nhưng chung quy lại sản lượng bán ra chỉ quanh mức 70%. Có tin Ba Con Cò - một DN nước ngoài cũng đã bán lại Cty với giá bèo 10 triệu USD và nghe đâu DN mua lại làm nghề vận tải, họ mua NM Ba Con Cò không phải để SX phân bón mà chỉ dùng mặt bằng vì có cảng rất tiện lợi.Không chỉ có các DN phân bón NPK mà cả DN phân hữu cơ, không chỉ với các DN phân bón gốc mà cả với phân bón lá, không chỉ với DN lớn mà cả với DN vừa và nhỏ- khốn khó không chừa bất kỳ ai. H. Một kỹ sư xinh đẹp, trình độ khá lại đã có thời gian tu nghiệp tại Isarel vậy mà cũng phải rời Cty MX đang xúc tiến một sàn giao dịch bất động sản bên Q7 TPHCM. Khánh, giám đốc một Cty có sản phẩm K.Humate nổi tiếng một thời năn nỉ với nhà báo – Anh cho em khất món nợ 17 triệu tiền quảng cáo đấy nhé, phân bán ra không thu tiền được anh ạ. Phụng Hoàng, người rất có duyên trong phân phối phân bón cũng phải ngao ngán - Giỏi lắm thì chỉ thu hồi nợ vụ HT được 30%. Tất cả đều đứng ngắc, trừ một vài sản phẩm vi sinh.Sao nên cơ sựPhân tích kết cấu giá thành của Xí nghiệp CH, thuộc Cty Phân bón Miền Nam thấy giá trị phần tín dụng lên tới trên 300.000 đ/T sản phẩm. Tất cả mọi chuyện đều bắt đầu từ chuyện lạm phát, giảm phát, khủng hoảng tài chính thế giới và cơn sốt phân bón 2008, năm mà DPM cho mùa bội thu, ông trùm của những ông trùm” lỗ cả trên nghìn tỷ đồng vì mua phải những lô phân với giá 1.200 USD/T DAP, 800 USD/T Urê, 1.000 USD/T Kali.Mua về lúc giá cao, khi giá xuống bán ra không được nên buộc DPM phải xử lý từ từ theo kiểu bán bia kèm mồi”, bán urê nội giá rẻ nhưng kèm phân ngoại giá cao hơn, gần 1 năm rồi mà lượng phân trót dại lỡ nhập” vẫn chưa hết. Tưởng thế đã kinh, nhưng không, Lâm Thao mua mấy chục nghìn tấn lưu huỳnh với giá trên 1.000 USD/T nhưng chỉ 2 tháng sau giá chỉ còn 80 USD/T và hiện nay chưa tới 60 USD/T. Tương tự, tất cả các NM phân bón NPK, nhỏ thì lỗ năm bảy chục tỷ, trung trung thì trăm tỷ còn lớn thì bốc hơi cả ngàn tỷ chỉ trong vài tháng trời.Thiệt hại không dừng lại ở đó, khi thị trường lên cơn sốt thì đại lý cấp 1, cấp 2, cấp 3 thi nhau gom hàng, trữ hàng. Tất cả các NM chạy tốc lực hết công suất ngày đêm với chất lượng tèm tẹm”. Thuận mua vừa bán nhưng phân bón vẫn chất đầy trong kho, mấy tháng sau giá trị lô hàng chỉ còn phân nửa. Vẫn không bán được, vì cung vượt cầu, vì dân mất lòng tin với NPK nội địa, để lâu đóng cục, lại phải chở về tái chế, giá trị mười chỉ còn một hai, trong lúc lãi ngân hàng thì cứ chồng lên.Để SX bình thường, các NM buộc phải nhập nguyên liệu chí ít hợp quy, phân bón npk thì cũng đủ để SX đôi tháng, trong lúc giá thế giới cứ thi nhau giảm. Tháng 9/2008 là thời điểm các NM cần nhiều nguyên liệu nhất để chuẩn bị cho vụ ĐX cũng là lúc giá phân cao nhất với DAP lên tới 1300 USD/T, Urê – 800 USD/T và KCl – 1.000 USD/T nhưng đến quý 1/2009 giá chỉ còn 400 – 450 USD/T với DAP, 256 – 270 USD/T với Urê và 720 USD/T với KCL, đến quý 3 này giá DAP giảm tiếp chỉ còn 330 – 350 USD/T, Urê nhích lên 280-285 USD/T và KCl giảm chỉ còn 510-550 USD/T. So với đầu năm, giá NPK trong nước giảm tới 30% nhưng vẫn không kịp với mức giảm của phân đơn NK.Nhà nước có nên cứu?+ Nền công nghiệp phân bón non trẻ của chúng ta đang đứng trên bờ vực của sự phá sản. Vẫn biết rằng trong tình hình cả thế giới cùng in tiền, cùng lạm phát như hiện nay thì tất yếu giá phân bón sẽ phải lên lại nhưng đấy là lúc nào, năm nào thì không ai trả lời được. Vẫn sợ rằng, đến lúc đấy thì các cỗ máy đều đã hoen rỉ, nhân lực đã bị phân tán. + Phân bón NPK là một TBKT, phân hữu cơ là cực kỳ cần thiết cho nền SXNN thâm canh bền vững, điều đấy đã được minh chứng qua thành tựu xuất khẩu của lúa gạo, cà phê, cao su…Nông dân đã khó khăn trong việc tiếp cận với gói kích cầu, SXNN đi xuống thì việc sống dậy của các NM phân bón càng xa vời. Trên đây là phát biểu của bà Men Samol Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Hoàng gia Campuchia tại Hội nghị Tổng kết thị trường Campuchia hàng năm do Công ty Cổ phần phân bón Bình Điền tổ chức tại Phnom Penh sáng ngày 29/4 với sự tham dự của nhiều quan chức Bộ Nông nghiệp Campuchia và hàng trăm đại diện nông dân đến từ nhiều tỉnh. Bà Men Samol nói rằng Chính phủ Campuchia ưu tiên phát triển nông nghiệp nhằm bảo đảm an ninh lương thực, giảm nghèo cho người dân và từng bước tăng sản lượng xuất khẩu gạo; do đó sự giúp đỡ của Việt Nam, thông qua chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến và các sản phẩm chất lượng cao phục vụ nông nghiệp, có ý nghĩa rất quan trọng. Phát biểu tại Hội nghị, Tổng giám đốc Công ty Lê Quốc Phong cho biết có đến hơn 15% trong số 1 triệu tấn phân NPK do công ty sản xuất mỗi năm được tiêu thụ ở Campuchia. Ông Phong nói rằng các sản phẩm của công ty mang đến cho nông dân Campuchia đều có chất lượng cao nhất, không chi giúp tăng năng suất cây trồng mà còn góp phần bảo vệ mội trường. Ông Phong cho biết trong một thập kỷ có mặt tại thị trường Campuchia, đã có rất nhiều đoàn cán bộ khoa học, kỹ thuật của công ty sang hướng dẫn kỹ thuật canh tác nông nghiệp chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân Campuchia; ngoài việc phân phối sản phẩm cho các đối tác ở Campuchia. Trong 10 năm qua, năng suất lúa ở Campuchia đã tăng hơn ba lần, lên đến 5-6tấn/ha, có nơi đạt 8 tấn. Nhiều đại diện nông dân tham dự Hội nghị đều nhấn mạnh đến những tiến bộ khoa học kỹ thuật Việt Nam chuyển giao cho Campuchia, trong đó có những sản phẩm phân bón chất lượng cao đã góp phần tăng năng suất lúa ở Campuchia. Trên thị trường Campuchia hiện có sản phẩm phân bón của nhiều công ty phân bón, trong đó có các công ty lớn như Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền, Công ty Phân bón Quốc tế Năm sao và Công ty Đạm Phú Mỹ, Công ty Bảo vệ thực vật An Giang./. Trần Chí Hùng/Phnom Penh Vietnam+. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, 5 tháng đầu năm, NK phân bón giảm mạnh cả lượng và giá trị. Cụ thể, ước tính khối lượng NK phân bón các loại trong tháng 5 đạt 159 nghìn tấn với giá trị 43 triệu USD, đưa khối lượng NK phân bón 5 tháng đầu năm đạt gần 1,31 triệu tấn, kim ngạch NK đạt 405 triệu USD, giảm 14,9% về lượng và giảm 35,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, khối lượng NK phân urê ước đạt 27 nghìn tấn với giá trị 8,9 triệu USD, giảm 71,7% về lượng và giảm 75,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013; phân SA ước đạt 396 nghìn tấn với giá trị NK 55 triệu USD, giảm 1,8% về lượng nhưng giảm tới 32,9% về giá trị. Nguồn phân bón NK chủ yếu từ Trung Quốc, chiếm tới 45,3% tổng kim ngạch NK.. 1. Phân DAP NH42 H2 PO4N>=18%, P2O5>=46% 3900 CNY/tấn Chi cục HQ Bát Xát Lao CaiNhập khẩu 1. Phân DAP NH42 H2 PO4N>=18%, P2O5>=46% 3900 CNY/tấn Chi cục HQ Bát Xát Lao Cai2. Phân DAP, N>=18%, P2O5>=46%, 50 kg/bao 3.900 CNY/tấn Chi ccụ HQ Bát Xát Lao Cai3. Phân NPK 16-16-8-13S-hàng bao 437 USD/tấn Chi cục HQ Cảng Qui Nhơn Bình Định4. Mảnh nhựa PET loại A 0,55 USD/kg HQ Cảng Biển Cái Lân Quảng Ninh5. Hạt nhựa PETCHIP dạng nguyên sinh 0,95 USD/kg Chi cục HQ quản lý hàng gia công HCM 6. Xe ôtô TOYOTA Highlander 3.5 máy xăng 495.000.000 VND/cái HQ khu TM Lao Bảo7. Natri suphat Na2SO4 99% dạng khan 95,00 USD/tấn HQ ga Yên Viên Hà Nội 8. Hóa chất xử lý nước thải CN H2O2 35% 540,00 USD/tấn KCX Long Bình Đồng Nai9. Khí đốt hóa lỏng LPG 515,00 USD/tấn HQ Biên Hòa 10. Máy phát điệnlinh kiện ôtô Toyota Fotuner 79,90 USD/chiếc HQ Gia Thụy Hà Nội 11. Hóa chất hữu cơ DOP, Phthalic Anhydride 640,00 USD/tấn Cảng Cát Lái TP.HCM12. Chất màu trong ngành SX sơn: ionic yellow 5 gex 3,70 USD/kg HQ cảng Cát Lái TP.HCMXuất khẩu 1. Gạo jasmine 5% tấm 730 USD/tấn Chi cục HQ CK Cảng Cần Thơ2. Bia lon Halida 330ml, 24 lon/thùng 5,6 USD/thùng Chi cục HQ CK Cảng HP KV III3. Tôm sú thịt đông lạnh xuất xứ Việt Nam 20,61 USD/kg Chi cục HQ CK Cảng Năm Căn Cà Mau4. Chân gà đông lạnh loại AB 1,68 USD/kg Chi cục HQ CK Cảng Sài Gòn KV I 5. Chân gà đông lạnh loại AB 1,58 USD/kg Chi cục HQ CK Cảng Sài Gòn khu vực I 6. Quả vải tươi 0,6 USD/kg Chi cục HQ CK Cha Lo Quảng Bình 7. Kẹo dừa thương hiệu Bến Tre do Việt Nam SX A1 15.000.000 VND/tấn Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 8. Tỏi củ khô 269,8 USD/tấn Chi cục HQ CK Lao Bảo Quảng Trị9. Cà phê robusta loại 2 hàng đóng bao 1.444 USD/tấn Chi cục HQ Long Bình Tân10. Cá ngừ tươi 6 USD/kg Chi cục HQ Sân bay Tân Sơn Nhất 11. Giá sách bằng gỗ cao su 0,5 USD/cái Chi cục HQ KV IV ICD Tanamexco. Phân bón Văn Điển thau chua, rửa mặn, bồi bổ đất Việt Nam” CÔNG TY CP PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN - Đơn vị đạt 4 danh hiệu anh hùng - Giải thưởng tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO - DN Phân bón duy nhất đạt TOPTEN Thương hiệu Việt 2011 - TOPTEN Sản phẩm vàng Việt Nam 2012 - Địa chỉ: Đường Phan Trọng Tuệ, huyện Thanh Trì, Hà Nội - Điện thoại: 043.688.4489 - Fax: 043.688.4277 - Website: vafco.vn. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK. Cây dưa chuột có tên khoa học là Cucumis sativus L. Thuộc họ bầu bí Cucurbitaceae; là loại rau ăn quả có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao. Nhiệt độ trung bình ngày đêm thích hợp cho dưa chuột là 22 - 24 độ C, chịu được nóng tốt nên có thể trồng được vào vụ hè. Nếu nhiệt độ đất bằng 15,6 độ C thì phải mất 9 - 16 ngày hạt dưa chuột mới nảy mầm được, nếu nhiệt độ đất là 21 độ C thì chỉ mất 5 - 6 ngày là hạt nảy mầm. Trường hợp quá nóng vào giai đoạn ra hoa thì cũng giảm khả năng thụ phấn của hoa. Dưa chuột cũng là cây chịu độ ẩm đất và không khí cao hàng đầu so với các loại rau. Giai đoạn cây dưa chuột tăng trưởng mạnh, yêu cầu về dinh dưỡng và nước cao từ sau khi hình thành tua bám vào dàn cho đến ra hoa, hình thành quả. 2. Các giống cho chế biến - Dạng sản phẩm cho chế biến muối chua bao gồm 2 dạng quả: Quả bao tử gồm 4 giống, trong đó có 1 dòng của Việt Nam, còn lại là 3 giống F1 của Đài Loan, Hà Lan và Mỹ. Quả nhỏ gồm 23 giống, trong đó chủ yếu là các giống địa phương và các dòng dưa chuột đang được chọn của Việt Nam. Ngoài ra có 6 giống từ Thái Lan và 3 giống từ Đài Loan. - Dạng sản phẩm cho chế biến muối mặn. Ở nhóm giống này chủ yếu có nguồn gốc từ Việt Nam 10 giống, Đài Loan 4 giống và Nhật Bản 5 giống. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các giống cho chế biến: - Nhóm giống chín sớm: Thời gian từ mọc đến thu quả đầu sớm, dao động 30 - 35 ngày. Trong nhóm này có giống TN011, Tam Dương, PC4… - Nhóm giống chín trung bình: Thời gian từ mọc tới thu quả đầu 35 - 40 ngày, ví dụ như giống: Phú Thích, Marinda, PC1... - Nhóm giống chín muộn: Thời gian từ mọc tới thu quả đầu từ 40 - 45 ngày trở lên, đó là các giống Vista, Số 266. 4. Kỹ thuật gieo trồng 4.1. Thời vụ - Vụ xuân gieo hạt từ tháng 1 đến tháng 2 có thể kéo dài đến hết tháng 3; vụ đông từ tháng 9 đến tháng 12; vụ hè từ tháng 4 đến tháng 7. Năng suất cao nhất là vụ xuân, thấp nhất vụ hè. - Đối với các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc có thể trồng dưa chuột quanh năm, tuy nhiên vào các tháng quá lạnh như cuối tháng 12, tháng 1 thì năng suất dưa chuột quá thấp vì nhiệt độ thời gian này xuống thấp. - Các tỉnh phía Nam gieo hạt cuối tháng 4 đầu tháng 5, thu hoạch giữa tháng 6 đến hết tháng 7. 4.2. Gieo cây con Để tiết kiệm hạt giống, công chăm sóc cây giai đoạn đầu và tăng độ đồng đều của cây, cần sản xuất cây con trong khay xốp hoặc khay nhựa có kích thước 60 x 45 cm với số lượng 60 hốc/khay. Vật liệu làm bầu gồm 40% đất, 30% trấu hun hoặc mùn mục và 30% phân chuồng hoai mục. Hạt ngâm trong nước ấm 35 - 40 độ C trong thời gian 3 giờ, sau đó ủ ở nhiệt độ 27 - 30 độ C. Khi hạt nứt nanh thì đem gieo vào các hốc, mỗi hốc 2 hạt và tưới đủ ẩm. Lượng hạt dưa gieo cho 1 ha là 0,7 - 1,0 kg/ha 30 gr/sào Bắc bộ. 4.3. Làm đất, trồng cây Dưa chuột có thể trồng được trên nhiều loại đất nhưng thích hợp trên đất có độ phì nhiêu cao, trung tính, pH từ 6 - 7,0. Đất chưa trồng các cây họ bầu bí để tránh lây nhiễm sâu, bệnh. Dưa chuột kém chịu trong môi trường đất chua mạnh. Khoảng cách gieo trồng thích hợp: Hàng cách hàng 50 - 60 cm, cây cách 30 - 40 cm, tương ứng với mật độ 27.000 - 43.000 hốc/ha tương ứng với 1.000 - 1.500 hốc/sào Bắc bộ. Chú ý nếu gieo trồng ở vụ xuân hè hoặc vụ hè thì mật độ thưa, còn ở vụ đông thì mật độ dày hơn. Làm đất kỹ, nếu gieo trồng vào xuân hè hoặc vụ hè có mưa nhiều thì phải lên luống cao 30 cm, vào vụ đông thì lên luống 20 cm. Mặt luống rộng 90 - 100 cm. Đào hốc hoặc đánh rạch theo hàng dọc theo luống, hàng cách mép luống 20 cm. Cho phân bón lót vào hốc, trộn đều với đất. Vì gieo thẳng hạt nên sau khi bón phân lót phải rắc lớp đất bột mịn lên trên, sau đó rắc hạt, mỗi hốc 3 hạt. Sau này khi cây đã mọc 2 - 3 lá thật phải tỉa bớt cây con chỉ để lại 1 - 2 cây/hốc. Đối với giống lai F1 thì chỉ để lại 1 cây/hốc. Sau gieo phủ rạ lên trên hốc, tưới đẫm nước. Sau đó hàng ngày tưới nước duy trì ẩm cho đến bén rễ hồi xanh. 5. Bón phân NPK-S Lâm Thao - Bón lót: 15 - 20 tấn phân chuồng hoai mục/ha 500 - 700 kg/sào + 500 - 600 kg /ha NPK-S5.10.3.8 từ 18 - 22kg/sào Bắc bộ. - Bón thúc: Chia làm 3 lần Thúc lần 1 khi cây có 2 - 3 lá thật. Dùng NPK-S loại 12.5.10-14: 300 - 350 kg/ha 11 - 13 kg/sào ; Bón thúc lần 2: Khi cây cao 20 cm, đã có tua cuốn. Dùng NPK-S loại 12.5.10-14: 250 - 300 kg/ha 11 - 13 kg/sào ; Thúc phân xong thì cắm giàn. Bón thúc lần 3 khi cây ra hoa và có quá rộ: Dùng hop quy, phan bon npk NPK-S loại 12.5.10-14: khoảng 200 - 250 kg/ha 7 - 9 kg/sào. Bón thúc lần này kết hợp với tháo nước vào rãnh để tưới cho cây. 6. Thu hoạch và để giống dưa chuột Để ăn tươi phải thu hoạch sớm khi các u vấu ở quả còn nổi rõ, tức là sau khi hoa cái tàn 7 - 10 ngày. Muốn để giống chọn quả ở gốc, đều, thẳng. Thu khi quả thật già, vỏ vàng nhiều rạn chân chim. Để thêm 7 - 10 ngày nữa cho hạt chín sinh lý, sau đó bổ ra lấy hạt, đãi, hong khô. Chúc bà con nông dân sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao theo khuyến cáo để đạt năng suất và chất lượng dưa chuột cao, phục vụ cho tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu.


II. Phí thẩm xét hồ sơ công bố lần đầu phù hợp quy định ATTP đối với sản phẩm thực phẩm chức năng và thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là 1


.Thời kỳ bón Loại phân Lượng bón Cách bón Thúc 1 đầu tháng 2 NPK 10.10.5 1,5 – 2,0kg/cây Đào những hố nhỏ đường kính từ 10-15cm, sâu 5-10cm; Hố cách hố 40-50cm; Hố đào xa gốc 1-1,5m. Rải phân NPK Văn Điển vào các hố rồi lấp kín phân. Nếu đất khô cần tưới ẩm để cây dễ dàng hấp thụ các chất dinh dưỡng trong phân. Thúc 2 Đầu tháng 4 NPK 10.10.5 1,5 - 2,0kg/cây Thúc 3 Đầu tháng 6 NPK 10.10.5 1,0 - 1,5kg/cây Thúc 4 Tháng 8-9, sau thu hoạch quả NPK 5.10.3 2,0 - 2,5kg/cây Thời kỳ bón Loại phân Lượng bón Cách bón Thúc 1 đầu tháng 2 NPK 10.10.5 1,5 – 2,0kg/cây Đào những hố nhỏ đường kính từ 10-15cm, sâu 5-10cm; Hố cách hố 40-50cm; Hố đào xa gốc 1-1,5m. Rải phân NPK Văn Điển vào các hố rồi lấp kín phân. Nếu đất khô cần tưới ẩm để cây dễ dàng hấp thụ các chất dinh dưỡng trong phân. Thúc 2 Đầu tháng 4 NPK 10.10.5 1,5 - 2,0kg/cây Thúc 3 Đầu tháng 6 NPK 10.10.5 1,0 - 1,5kg/cây Thúc 4 Tháng 8-9, sau thu hoạch quả NPK 5.10.3 2,0 - 2,5kg/cây. Thời kỳ bón Loại phân Bón lót hoặc bón sau thu hoạch Bón thúc sau trồng 2-3 tháng Bón thúc sau trồng 5-6 tháng Bón thúc trước ra hoa 2 tháng Phân chuồng hoai 5.000 ÷ 10.000 NPK-S 5.10.3-8 585 ÷ 695 NPK-S 12.5.10-14 hoặc 10.5.10-5 585 ÷ 695 585 ÷ 695 585 ÷ 695 Lượng phân bón cho dứa, tính cho 1 sào Bắc Bộ kg/360 m 2 Phân chuồng hoai 200 ÷ 400 NPK-S 5.10.3-8 20 ÷ 25 NPK-S 12.5.10-14 hoặc 10.5.10-5 20 ÷ 25 20 ÷ 25 20 ÷ 25. Sp; Chi cục HQ Bắc Phong Sinh Quảng Ninh 2. Xe trượt thể thao trẻ em trên 3 tuổi, hiệu XIAOLIMING 4,83 USD/cái Chi cục HQ Bắc Phong Sinh Quảng Ninh 3. Bầu quạt điện dân dụng loại đứng hiệu Komasu 2,88 USD/cái Chi cục HQ Bắc Phong Sinh Quảng Ninh 4. Thạch cao tự nhiên dạng khoáng chất chưa nung 9 USD/T Chi cục HQ CK Lao Bảo Quảng Trị 5. Ammonium nitrate NH4NO3>99,5% TQSX 990 USD/T Chi cục HQ CK Lào Cai 6. SODIUM TRIPOLY PHOSPHATE STPP 1.070 USD/T Chi cục HQ CK Lào Cai 7. Dây dẫn tín hiệu bọc nhựa dạng cuộn 0,21 CNY/mét Chi cục HQ CK Trà Lĩnh Cao Bằng. 8. Cát vàng thiên nhiên 2,5 USD/m3 Chi cục HQ CK Vĩnh Xương An Giang 9. Than cốc luyện từ than đá 3.130 CNY/T Chi cục HQ ga đường sắt Lào Cai10. Tủ bảo quản thực phẩm làm lạnh 200 USD/cái Chi cục HQ Tân Thanh Lạng Sơn 11. Máy đóng nút chai 220 v/370w. JY 7134 25 USD/cái Chi cục HQ Tân Thanh Lạng Sơn 12. Điện trở cố định công suất 1/4w 15,9 CNY/kg Chi cục HQ Tân Thanh Lạng Sơn 13. Thâm micro dài Xuất khẩu 1. Đá xây dựng đánh bóng, vát cạnh 80x40x3cm 35 USD/m2 Chi cục HQ cảng Thanh Hóa 2. Chè xanh khô 15.000 VND/kg Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 3. Tinh bột sắn 2.550 CNY/T Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 4. Máy dập lúa liên hoàn không kém động cơ 7.640.000 VND/cái Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 5. Bánh đậu xanh Chí Hường 18.000 VND/kg Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 6. Bong bóng cá tra đông lạnh 1,53 USD/kg Chi cục HQ CK Hoành Mô Quảng Ninh 7. Tôm càng nguyên con IQF 8,59 USD/kg Chi cục HQ CK Hoành Mô Quảng Ninh 8. Vỏ bao PP 0,35 USD/cái Chi cục HQ CK Thường Phước Đồng Tháp 9. Thép ống kẽm phi 49x3,2mmx6m 1,28 USD/kg Chi cục HQ CK Tịnh Biên An Giang 10. Thép gai xây dựng phi 12x12m 0,73 USD/kg Chi cục HQ CK Tịnh Biên An Giang 11. Phân bón NPK 16-16-8 13S VNSX 580 USD/T Chi cục HQ CK Tịnh Biên An Giang 12. Phân NPK 16-16-8-13S 680 USD/T Chi cục HQ CK Vĩnh Xương An Giang. Phân bón khép kín NPK-S Lâm Thao cho lúa vụ xuân năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt Mô hình triển khai tại 2 điểm thuộc 2 huyện, gồm: Thôn Lam Điền xã Đông Động, huyện Đông Hưng 2 mô hình; xã Quang Bình, huyện Kiến Xương 1 mô hình. Mỗi mô hình 3ha, tổng diện tích thực hiện là 9ha. Quy trình bón phân được thục hiện theo quy trình bón phân khép kín của công ty: Bón lót: NPK-S5.10.3-8: 25kg/sào; bón thúc đẻ nhánh: NPK-S12.5.10-14: 9kg/sào; bón đón đòng: NPK-S12.5.10-14: 8kg/sào. Đối chứng theo tập quán bón phân thông thường ở địa phương. Trong suốt quá trình thực hiện mô hình, các cán bộ kỹ thuật của công ty kết hợp với Hội Nông dân tỉnh tổ chỉ đạo, theo dõi, đánh giá sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa, hướng dẫn bà con nông dân bón phân theo đúng quy trình kỹ thuật. Ngày 11.6, Hội Nông dân tỉnh phối hợp với Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao tổ chức tổng kết mô hình tại xã Đông Động. Qua thực hiện mô hình trình diễn tại thôn Lam Điền đã đạt được kết quả cao, thể hiện: Ở giai đoạn mạ: hợp quy, phân bón npk Các giống trong mô hình và ngoài mô hình đều giống nhau, mạ khỏe, sức sinh trưởng tốt. Giai đoạn lúa cấy: Các giống lúa ở mô hình đẻ nhánh sớm, tập trung, lá xanh đẹp, lúa trỗ nhanh, gọn; các giống đối chứng đẻ nhánh không tập trung, lá xanh đậm hơn, thời gian lúa trỗ dài hơn, nhiều bông hơn nhưng tỷ lệ bông có số hạt dưới 100 hạt nhiều hơn, tỷ lệ lép cao hơn, số hạt chắc ít hơn. Mức độ sâu bệnh đều nhiễm nhẹ hơn so với đối chứng, đặc biệt là rầy nâu. Theo dõi trên giống lúa tại thôn Lam Điền cho thấy, trên nền phân bón NPK-S chuyên dụng của Lâm Thao, cây lúa phát triển cân đối, cứng, bộ lá khỏe, lúa đẻ tập trung hơn và tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao hơn so với ruộng đối chứng. Số dảnh đẻ tối đa đếm được số bình quân tương đương ở cả nền dùng phân chuyên dụng và đối chứng, nhưng tỷ lệ hữu hiệu ở nền phân chuyên dùng NPK-S Lâm Thao cao hơn so với đối chứng. Cụ thể năng suất lúa giống BC15 tại thôn Lam Điền là 260 kg/sào, giống Q5 là 270kg/sào vùng đối chứng giống BC15 năng suất là 230kg/sào, giống Q5 năng suất là 240kg/sào. Trên nền phân bón NPK-S Lâm Thao cây lúa có sức chống chịu sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng khá hơn, đặc biệt là bệnh đạo ôn và rầy. Kết quả cho thấy: Mô hình sử dụng phân bón NPK-S chuyên dụng Lâm Thao đều có các chỉ tiêu yếu tố cấu thành năng suất và năng suất tăng so với các ruộng sử dụng phân đơn. Mức tăng năng suất thực thu cuối cùng của mô hình bón phân NPK-S chuyên dụng so với phân đơn là 30kg lúa.


Đặc biệt viên phân Vedagro có màu đen và kích thước giống hệt viên DAP của Mỹ nên khi mở bao phân ra vẫn có 3 viên 3 màu rất đẹp, vậy là nông dân sập bẫy. Bao trái để tránh sâu bệnh và phải dùng phân hóa học, thuốc BVTV cho xoài. Dùng phân NPK Văn Điển cho cây đậu tương Tuy nhiên, vụ đông ở miền Bắc thường được bắt đầu từ trung tuần tháng 9 và kết thúc cuối tháng Giêng năm sau, đầu vụ mưa nhiều cây khó phát triển, cuối vụ khô lạnh, số giờ nắng trong ngày thấp, thậm chí nhiều ngày không có nắng làm cho cây trồng tổng hợp chất khô gặp nhiều khó khăn do hiệu suất quang hợp thấp, nếu không có biện pháp gieo trồng, chăm sóc đúng, đặc biệt cung ứng đủ dinh dưỡng, năng suất cây đậu có thể sẽ không cao. Để giúp bà con biện pháp trồng đậu tương đạt hiệu quả, chúng tôi giới thiệu kỹ thuật bón phân NPK Văn Điển chuyên dùng cho cây đậu tương vụ đông. 1. Cơ cấu giống: - Trà sớm: Gieo trước 25.9, dùng giống dài ngày 95 ngày, năng suất cao DT2008 80 – 100 kg/sào. - Trà trung: Gieo trước 5.10, dùng giống trung ngày 80 – 90 ngày DT84, DT96, DT90, DT 2001, AK06, ĐT26, ĐVN6, ĐVN9 năng suất 60 kg/sào. - Trà muộn: Gieo trước 10.10, dùng các giống ngắn ngày có thời gian 70 – 75 ngày như DT 99, ĐT 12 năng suất 40 – 50 kg/sào. - Lượng giống gieo: 2,5 – 3kg/sào 65 - 70kg/ha, nếu gieo vãi cần 3-4 kg/sào 90 – 100 kg/ha, tỷ lệ nảy mầm phải đạt trên 70%, trước khi gieo nên phơi 2-3 giờ ngoài nắng nhẹ để kích thích hạt nảy mầm. 2. Mật độ cây: Mật độ gieo trung bình 45 - 55 cây/m2 30 x 12 cm/cây, riêng DT2008 gieo 30 cây/m2 35 x 15 cm/cây. 3. Nhu cầu dinh dưỡng Đất sản suất vụ đông là đất sau vụ lúa mùa, thu hoạch đến đâu làm đất gieo trồng đến đó, đất không được nghỉ, các chất dinh dưỡng trong đất đều cạn kiệt do cây trồng vụ trước lấy đi, đồng thời để lại một lượng hữu cơ tươi gốc, rễ lúa. Khi phân hủy làm tăng độ chua cho đất ảnh hưởng đến môi trường phát triển cây trồng, bên cạnh đó phân hữu cơ giảm sút, nhiều nơi trồng chay đất nghèo kiệt các chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây. Vào vụ đông, nhiệt độ xuống thấp hơn, hệ thống nốt sần tự tổng hợp chất đạm của cây đậu tương hoạt động kém, để cây sinh trưởng phát triển cân đối, năng suất cao, quả và hạt chắc mẩy, đề kháng sâu bệnh, chống đổ ngã tốt cần có tới 19 nguyên tố thiết yếu cho sinh trưởng và phát triển. Phân chuyên dụng cho đậu tương: Nhằm đơn giản và cải thiện quy trình bón phân cho cây đậu tương, Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển đã hợp tác với các nhà khoa học nghiên cứu công thức phân tổng hợp gọi là phân bón đa yếu tố chuyên dụng cho cây đậu lạc, phân có nhiều đặc điểm ưu việt phù hợp với cây đậu tương do mang nhiều chất hữu ích hơn các loại phân tổng hợp khác: Thành phần phân bón: Ngoài các chất đa lượng N đạm, P lân, K kali còn có các chất trung lượng S, CaO, MgO, SiO2 và hàng chục loại chất vi lượng như Mn, B, Zn, Cu, Co… bảo đảm cho cây sinh trưởng phát triển cân đối, đề kháng tốt với sâu bệnh, đổ ngã, đạt năng suất và chất lượng cao trên các loại đất chua, đất bạc màu. Với thành phần cơ bản là lân nung chảy, đây là phân tan chậm, giảm thiểu trôi rửa, tiết kiệm phân bón, giúp cân đối dinh dưỡng, cải thiện chất đất, 1kg lân nung chảy có tác dụng giảm độ chua tương đương 0,5kg vôi, có tác dụng kích thích dinh dưỡng cho bộ rễ, giúp cho hệ thống nốt sần phát triển. Phân chuyên cho cây đậu 4N:12P:7K được sản xuất chuyên cho bón lót có công thức 4%N: 12P205: 7K20: 2S: 10MgO: 20CaO: 15SiO2 và các vi lượng. 4. Kỹ thuật sử dụng phân bón Cách bón cho đất ướt dùng lối gieo vãi hoặc gieo gốc rạ: Tập trung và kết thúc gọn trong 23 ngày trước khi đậu có hoa. Lượng bón: Đạm urê: 112 kg/ha 4 kg/sào, phân lân nung chảy: 420 kg/ha 15kg/sào BB, kali clorua: 112 kg 4 kg/sào hoặc dùng 20kg phân NPK đa yếu tố chuyên dụng đậu lạc 560kg/ha. Bón thúc lần I: Khi đậu có 1 lá thật lá nhặm 3 thùy, dùng cho 1 sào BB: Trộn đều 2kg đạm urê + 1 kg kali + 15kg lân nung chảy cho 1 ha: 56kg đạm urê, 28 kg kali, 420kg lân nung chảy hoặc 20kg phân đa yếu tố chuyên dụng đậu lạc 4:12:7 cho 1ha: 560kg, rắc đều trên mặt ruộng vào chiều mát lúc lá đậu khô. Tránh bón phân khi lá đậu còn ướt, đặc biệt không bón buổi sáng còn ướt sương hoặc sau mưa dễ gây cháy lá. Bón thúc lần II: Khi đậu có 5 – 6 lá thật, chuẩn bị ra hoa, trộn đều lượng phân còn lại cho 1 sào: 2kg kali + 3kg đạm urê, cho 1ha: 56kg kali + 84kg đạm rải đều trên ruộng, nếu dùng phân đa yếu tố thì bón thúc bằng 84kg kali/ha 3 kg/sào Bắc Bộ. CôngThương - Với một thị trường phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu, mặt hàng phân bón vẫn luôn là nỗi lo của người nông dân và cơ quan quản lý bởi sự trồi sụt thất thường của nó. Thông tin từ Bộ Công Thương cho thấy, giá bán lẻ phân bón trong nước trong tháng 7/2009 ổn định, giá phân lân ở mức 2.500 đồng/kg, phân NPK là 12.200 đồng/kg. Tuy nhiên, do giá nông sản thời gian qua xuống thấp nên việc tiêu thụ phân bón trong nước trầm lắng, tồn kho tăng. Sản xuất phân lân và NPK của tháng 7 tiếp tục giảm so với tháng 6/2009 và so với cùng kỳ, cụ thể: phân lân giảm 6,5% so với tháng 6 và 6,3% so với cùng kỳ; phân NPK giảm 13,7% so với tháng 6 và 10,2% so với cùng kỳ. Do phụ thuộc khá nhiều vào nhập khẩu nên giá phân bón trong nước cũng có nhiều biến hop quy, phan bon npk động, nhu cầu tiêu thụ của thị trường lại gắn với yếu tố mùa vụ nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Theo ước tính của các chuyên gia, năm 2009 ngành nông nghiệp cần khoảng 8,5 triệu tấn phân bón, thế nhưng nguồn cung từ thị trường nội địa hiện chỉ đáp ứng được 50-60% nhu cầu về phân u-rê, 100% phân lân nung chảy và NPK từ lân nung chảy còn các loại phân khác như SA, kali thi phải nhập khẩu hoàn toàn. Tại cuộc hội thảo về thị trường phân bón do Trung tâm thông tin Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tháng 7/2009, nhiều ý kiến cho rằng: rất khó để đưa ra một sự báo chính xác cho ngành phân bón Việt Nam bởi thị trường chưa có chiến lược phát triển dài hạn, các văn bản quản lý điều hành đều có tính sự vụ nên sẽ rất khó trở tay” nếu thị trường có biến động. Bên cạnh đó, việc điều tiết thị trường chưa được thực hiện tốt, các số liệu dự báo cung cầu còn có sự chênh lệch lớn; chưa có cơ quan nào đứng ra điều tiết hoạt động sản xuất, xuất khẩu và dự trữ phân bón để cân đối cung cầu. Các doanh nghiệp sản xuất phân bón cho rằng, từ đầu năm đến nay giá phân bón thế giới duy trì khá ổn định và trong xu hướng giảm thì thị trường trong nước lại giảm rất chậm, thậm chí có chiều hướng tăng lên. Dự báo những tháng cuối năm 2009, giá mặt hàng này có thể tăng do chi phí đẩy doanh nghiệp nhập khẩu phải bù thêm chi phí khi mua USD ngoài thị trường tự do. Bên cạnh đó, các yếu tố về thuế và việc tăng giá thành nguyên liệu nội địa cũng sẽ làm đội” giá sản phẩm. Chính bởi thế, để bình ổn thị trường thì phải hướng đến nội lực của chính các nhà sản xuất trong nước. Để có được một thị trường ổn định, đảm bảo chất lượng thì nhà nước cần ưu tiên đầu tư, liên doanh hoặc tư nhân hóa phát triển phân lân nung chảy vì nhu cầu sản phẩm này ở Việt Nam là rất lớn, hiện các doanh nghiệp mới chỉ đáp ứng được chưa tới 50%. Trước mắt, theo Bộ Công Thương, để đảm bảo đủ phân bón cho vụ hè thu và có sản phẩm gối đầu cho vụ mùa ở miến bắc sắp tới, các doanh nghiệp sản xuất cần tiếp tục bố trí sản xuất hợp lý, duy trì và đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là với sản phẩm phân đạm urê. Doanh nghiệp cũng cần tổ chức phân phối và bán phân bón trước, thu tiền vào cuối vụ cho nông dân; đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại hướng tới xuất khẩu sang thị trường tiềm năng trong khu vực và các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản. Được biết, sau nhà máy sản xuất phân bón DAP tại Hải Phòng vừa đi vào sản xuất với công suất 330.000 tấn/năm, trong năm 2009 sẽ có một nhà máy nữa tại Lào Cai được đầu tư xây dựng với tổng vốn 5.000 tỷ đồng. Duy Minh .. TRẢ LỜI: Các loại sản phẩm phân bón NPK-S Lâm Thao đều được SX qua công nghệ tiên tiến và vê viên tạo hạt, sấy khô, qua sàng rung hai cấp để lấy sản phẩm có kích thước hạt từ 3 - 4,5 mm, do được sấy khô nên sản phẩm có độ cứng nhất định. Khi vê viên như vậy tất cả các loại dinh dưỡng chứa trong một hạt sản phẩm. Không những thế khi vê viên và sấy khô còn tạo ta các phản ứng hóa học tạo ra những phức chất làm tăng hiệu quả phân bón. Mặt khác, cũng do sản phẩm có độ cứng nhất định nên chất dinh dưỡng được tiết ra từ từ, phù hợp với việc hút và sinh trưởng của cây trồng trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển. Sử dụng NPK-S Lâm Thao nâng cao năng suất cây trồng cạn TẠI SAO BÓN PHÂN NPK-S LÂM THAO LẠI TỐT HƠN SO VỚI BÓN PHÂN ĐƠN? TRẢ LỜI: Ta biết rằng phân bón có hiệu quả là bón đúng cách, đủ liều lượng, phù hợp với từng thời điểm sinh trưởng và phát triển của cây. Tập quán lâu đời của nông dân nước ta nói chung là hay sử dụng phân bón đơn vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà khi bón phân đơn thường không đủ dinh dưỡng và không phù hợp với thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây. Mặt khác khi bón đơn do đạm, kali tan nhanh và do khí hậu của nước ta nắng lắm mưa nhiều, do vậy lượng dinh dưỡng dễ bị thất thoát qua quá trình bốc hơi, rửa trôi rất lớn. Gây lãng phí phân bón, khi bón phân đơn bà con thường quan tâm nhiều đến phân đạm, ít chú ý đến lân và kali nên bón không không cân đối: Thừa đạm, thiếu lân và kali. Bón thừa đạm cây phát triển thân lá quá nhiều, cây mềm yếu, lốp đổ, nhiều sâu bệnh. Bón nhiều đạm ở giai đoạn sắp thu hoạch dẫn đến dư lượng ni tơ rát trong nông sản làm giảm chất lượng nông sản. Để hạn chế những nhược điểm của phân bón đơn hiện nay Cty Supe phốt phát & hóa chất Lâm Thao đã và đang SX các loại phân bón NPK-S. Phân bón NPK-S Lâm Thao được SX qua công nghệ vê viên, tạo hạt, qua quá trình sấy NPK-S Lâm Thao có đầy đủ dinh dưỡng đạm, lân, kali phù hợp với từng loại cây trồng, từng vùng đất, từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Ngoài thành phần dinh dưỡng là đạm, lân, kali NPK-S Lâm Thao còn bổ sung thêm các nguyên tố dinh dưỡng chung, vi lượng như canxi, magie, lưu huỳnh, kẽm, đồng, moluden, Bo… qua thực tế bón phân NPK-S Lâm Thao đặc biệt là bón phân theo quy trình khép kín hiệu quả hơn so với bón phân đơn. Tăng năng suất cây trồng 15 - 20%. Chi phí tiền mua phân bón thấp hơn. Cây trồng ít bị sâu bệnh, giảm chi phí mua thuốc trừ sâu. Nâng cao chất lượng nông sản. Giảm công lao động bón phân. Dễ áp dụng thực hiện. Chính vì vậy chúng tôi khuyến cáo bà con không nên dùng phân bón đơn riêng rẽ mà nên dùng NPK - S bón cho cây trồng. HỎI: BÓN NPK-S LÂM THAO CÓ LÀM CHAI ĐẤT? TRẢ LỜI: Bón NPK - S Lâm Thao không làm chai đất, cứng đất mà còn làm cho đất tơi xốp hơn bởi vì: Khi bón NPK-S Lâm Thao trong đó có thành phần Supe lân cung cấp lân dễ tiêu làm cho bộ rễ phát triển mạnh, đất xốp hơn cung cấp nhiều ôxi cho rễ tạo điều kiện cho các vi sinh vật phát triển. Bón NPK-S Lâm Thao đầy đủ làm tăng năng suất cây trồng do vậy ngoài lương thực đáp ứng cho nhu cầu của con người còn dành ra làm thức ăn chăn nuôi, chăm sóc phát triển làm tăng lượng phân chuồng cung cấp trở lại ruộng bổ sung phân hữu cho đất, cải tạo đất. Lưu ý: Bà con nông dân khi sử dụng NPK-S Lâm Thao bón đúng cách, đúng chủng loại và đúng liều lượng như hướng dẫn sử dụng của công ty. Do vậy, bón phân NPK-S Lâm Thao trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho đất tơi xốp hơn. CTY CP SUPE PHỐT PHÁT & HÓA CHẤT LÂM THAO. Mặc dù chịu sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm phân bón cùng loại trong nước cũng như nhập khẩu, sản xuất phân bón chịu ảnh hưởng trực tiếp mùa vụ nông nghiệp chủ yếu là vụ đông xuân và hè thu… nhưng Công ty cổ phần supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao vẫn ổn định sản xuất. Trong 6 tháng đầu năm, Công ty cổ phần supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao đã tiêu thụ trên 256.000 tấn supe lân, hơn 468.000 tấn NPK, 3.300 tấn axít sunphuríc, trên 27.200 tấn lân nung chảy. Doanh thu tiêu thụ đạt trên 3.100 tỷ đồng và đảm bảo việc làm ổn định cho 2.850 người với mức thu nhập bình quân 7,6 triệu đồng/người/tháng. Ông Nguyễn Duy Khuyến cũng kiến nghị các cơ quan chức năng tăng cường quản lý chất lượng hàng hóa, nhất là kiểm soát chặt chẽ không để hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường, làm mất lòng tin của người tiêu dùng và ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Viết Tôn. Năm 2008 nhập khẩu phân bón có nhiều biến động. Trái với xu hướng hàng năm là những tháng đầu năm lượng phân bón nhập về thường ở mức thấp và tăng mạnh trong những tháng cuối năm nhưng trong 5 tháng đầu năm 2008 lượng phân bón nhập về nước ta đã tăng rất mạnh, đạt 1,6 triệu tấn, tăng 50,8% so với cùng kỳ năm 2007. Trong khi đó, 7 tháng cuối năm, lượng phân bón nhập về hop quy, phan bon npk đạt rất thấp, trên 100 ngàn tấn/tháng. Đặc biệt, tháng 11 lượng nhập về chỉ đạt 70,8 ngàn tấn, giảm tới 81,06% so với cùng kỳ năm 2007.Lượng phân bón nhập về giảm trong những tháng cuối năm do lượng tồn kho nhiều, nhu cầu tiêu thụ chậm lại. Dự báo, nhu cầu phân bón của cả nước trong năm 2009 cần khoảng 8 đến 8,5 triệu tấn. Trong đó, Urea cần khoảng 1,7 triệu tấn; NPK cần 2,5-3 triệu tấn; phân lân 1,7 triệu tấn; kali 800 ngàn tấn; DAP cần 750 ngàn tấn và phân bón SA cần 750 ngàn tấn. Trong đó, dự kiến sản xuất trong nước năm 2009 khoảng 950 ngàn tấn Urea, còn lại phải nhập khẩu 710 ngàn tấn; phân bón DAP dự kiến sản xuất được 200 đến 250 ngàn tấn từ dự án DAP Hải Phòng còn lại phải nhập khẩu khoảng 450 đến 500 ngàn tấn. Về phân chứa lân supe lân, lân nung chảy và phân hỗn hợp NPK, trong nước có khả năng sản xuất đáp ứng cơ bản nhu cầu dự kiến 1,6 triệu tấn NPK. Phân bón SA và Kali phải nhập khẩu hoàn toàn. Như vậy tổng lượng phân bón các loại cần phải nhập khẩu năm 2009 khoảng 3,5 triệu tấn. So với năm 2007, lượng phân bón nhậpv ề từ một số thị trường chính đều giảm như lượng phân bón nhập về từ thị trường Trung Quốc giảm 28,17%; Nhật Bản giảm 26,3%; Belarus giảm 37,37%; Đài Loan giảm 9,65% và Philippines giảm 42,80%. Ngược lại, lượng phân bón nhập về từ một số thị trường khác lại tăng như từ Nga tăng 28,46%, Hàn Quốc tăng 3,78% và Đài Loan tăng 23,52%. Đáng chú ý, lượng phân bón nhập về từ thị trường Indonesia tăng rất mạnh, từ 2,5 ngàn tấn năm 2007 lên 67 ngàn tấn trong năm 2008. Giá nhập khẩu trung bình phân bón năm 2008 đtj 469 USD/tấn, tưang 86,64% so với giá nhập khẩu trung bình năm 2007. Trong đó, giá nhập khẩu trung bình về thị trường Nga tăng tới 203,63% so với giá nhập khẩu trung bình năm 2007, đạt 450 USD/tấn; Hàn Quốc tăng 103%, đạt 519 USD/tấn; Canada tăng 116,82%, đạt 568 USD/tấn; Belarus tăng 135,92%, đạt 578 USD/tấn; Trung Quốc tăng 72,95% so với giá nhập khẩu năm 2007, đạt 474 USD/tấn....Về chủng loại nhập khẩu: Trong năm 2008, hầu hết các chủng loại phân bón nhập về đều giảm. Trong đó NPK là chủng loại nhập về giảm mạnh nhất, giảm 34,37% so với năm 2007, đạt 170,47 ngàn tấn, trị giá gần 99 triệu USD. Giá nhập khẩu trung bình đạt 581 USD/tấn, tăng 95,5% so với giá nhập khẩu năm 2007. Chủng loại phân bón này nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Nauy và Hàn Quốc. Lượng phân DAP nhập về cũng giảm 33,54%, nhưng lại tăng 43,85% về trị giá so với năm 2009, đạt 432,6 ngàn tấn. Trong đó, nhập về từ thị trường Trung Quốc đạt trên 305 ngàn tấn với giá nhập khẩu trung bình 800 USD/tấn; Hàn Quốc đạt 54 ngàn tấn, giá trung bình 838 USD/tấn; Tunisia đạt khoảng 15 ngàn tấn, giá trung bình 1386 USD/tấn...So với năm 2007, nhập khẩu phân Urea giảm 4,9% về lượng song lại tăng 42,63% về trị giá, đạt 704 ngàn tấn, trị giá 285,6 triệu USD. Trung Quốc là thị trường cung cấp urea cho Việt nam chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm 88,7% tổng lượng ure nhập khẩu của cả nước, đạt trên 600 ngàn tấn, giá nhập trung bình 399 USD/tấn. Lượng Urea nhập khẩu từ Qata đạt 4 ngàn tấn với giá trung bình 533 USD/tấn. Đặc biệt, giá nhập khẩu trung bình phân Urea từ thị trường Hàn quốc, Nga và Ấn Độ thấp hơn giá nhập từ các thị trường khác từ 70 đến 200 USD/tấn.Chủng loại phân bón nhập khẩu năm 2008:Tên hàng Năm 2008 2008 so với 2007 Lượng tấn Trị giá USD % Lượng % Trị giá Phân bón các loại 3.004.2511.458.178-20,7745,81Phân Urê705.196285.838-4,7242,97Phân NPK162.53195.711-37,4324,08Phân DAP409.575369.351-37,0940,54Phân SA727.699184.924-26,0334,77Phân bón loại khác 999.250522.354-13,6661,97. Do đó, sản xuất không tăng, sản lượng sản xuất phân lân và phân bón NPK giảm mạnh 19,8% và 58% so với cùng kỳ. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất phân bón gặp khó khăn do việc điều chỉnh giá bán than trong khi giá bán phân bón không tăng.Giá phân urê thế giới hiện nay là 200 USD/tấn; phân DAP 500 USD/tấn; phân SA 145 USD/tấn. Giá phân bón trong nước DAP từ 10.000-13.000 đồng/kg, urê 5.300 đồng/kg, kali 10.000 đồng/kg.


III. Với Cty CP đầu tư thương mại ôtô quốc tế và Cty CP truyền thông OXY do đơn vị mới được cấp giấy hợp quy cuối năm 2012 nên chưa tổ chức sản xuất và chưa có sản phẩm hợp quy cung cấp cho thị trường


Nhiều người nông dân cho rằng đốt rơm rạ trên đồng ruộng sẽ tạo lượng phân bón tốt, nhưng theo các nhà khoa học việc này sẽ làm cấu trúc đất thay đổi. Ảnh: Hoàng Hà. Như vậy, tính đến hết tháng 7/2009, nhập khẩu phân bón đạt 2,47 triệu tấn với trị giá 810,8 triệu USD, tăng 5,29% về lượng tuy nhiên về kim ngạch lại giảm mạnh 27,97% so với cùng kỳ. Tháng 7/2009, nhập khẩu hầu hết các chủng loại phân bón đều giảm khá so với tháng 6/2009, trong đó, phân Ure giảm mạnh nhất, giảm tới 28,48% veè lượng và 33% về trị giá, còn nếu so với cùng kỳ tháng 7/2008 thì lượng Ure nhập về trong tháng 7/2009 lại tăng mạnh 89,99% về lượng và 17,15% về trị giá, đạt 71,8 ngàn tấn trị giá 19,9 triệu USD. Giá nhập khẩu trung bình chủng loại này trong tháng đạt 278 USD/tấn, giảm 19 USD/tấn so với tháng 6, và giảm 38,39% so với cùng kỳ 2008. Tính chung 7 tháng năm 2009, nhập khẩu Ure đạt 768 ngàn tấn trị giá 231 triệu USD, tăng 36,49% về lượng và tăng 5,4% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu phân DAP trong tháng 7 cũng giảm khá mạnh xuống còn 66,52 ngàn tấn trị giá 23,97 triệu USD, giảm 13,15% về lượng và 14,53% về trị giá so với tháng trước. Giá nhập khẩu trung bình đạt 360 USD/tấn, giảm 6 USD/tấn so với tháng trước, mức giá này chỉ bằng 29% mức giá trung bình nhập về cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 7 tháng năm 2009, nhập khẩu phân DAP tăng mạnh 71,12% về lượng, tuy nhiên về trị giá lại giảm tới 25,75% so với cùng kỳ năm ngoái. Chủng loại phân bón nhập khẩu tháng 7, 7 tháng năm 2009:Chủng loại Tháng 7/2009 7 tháng năm 2009 So với 7 tháng năm 2008 Lượng tấn Trị giá USD Lượng tấn Trị giá USD % lượng % trị giá Phân bón 246.137 85.192 2.477.610 810.864 5,29 -27,90 Phân Ure 71.830 19.985 768.109 231.188 36,49 5,40 Phân NPK 10.133 3.986 185.248 77.361 25,62 -4,66 Phân DAP 66.521 23.979 580.421 227.374 71,12 -25,75 Phân SA 45.803 5.722 662.477 94.534 39,47 -23,25 Loại khác 37.568 25.834 229.331 153.375 -72,33 -61,15 Trong tháng 7/2009, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu phân bón chính của Việt Nam và lượng nhập tăng mạnh, với 34% về lượng và 26,14% về trị giá so với tháng 6/2009. Tính chung 7 tháng năm 2009, nhập khẩu phân bón từ thị trường đạt 160,7 ngàn tấn với trị giá 48,33 triệu USD, tăng 2 lần về lượng, 51,16% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Chủng loại phân bón nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc chủ yếu là DAP, SA, Urea và Kali. Giá nhập khẩu trung bình các chủng loại này đều giảm khá so với tháng 6, cụ thể, SA là 118 USD/tấn, giảm 15%; Kali 528 USD/tấn, giảm 12,8%; Urea 273 USD/tấn, giảm 2,51%; DAP ổn định ở mức 364 USD/tấn. Tính đến hết tháng 7/2009, nhập khẩu phân bón từ thị trường này đạt 885 ngàn tấn trị giá 286,8 triệu USD, giảm 29,35% về lượng và 52,8% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. InfoTV. Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu, SX những sản phẩm mới, độc đáo và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, Cty ATA cũng đã đầu tư xây dựng trụ sở khang trang trên diện tích gần 2.000 m2 ở ấp 7, xã Tân Thành, thị xã Đồng Xoài, Bình Phước. Trụ sở có đầy đủ các phòng ban, phòng thí nghiệm, máy móc, thiết bị, khu tập thể cho cán bộ, nhân viên, công nhân. Điều này thể hiện quyết tâm của Cty ATA trong việc đầu tư sâu và lâu dài vào lĩnh vực phân bón, để có thể đáp ứng được cả những yêu cầu khắt khe hơn khi mà ngành phân bón sẽ trở thành một ngành SX có điều kiện trong thời gian sắp tới. Cán bộ Công ty CP phân bón Bình Điền tư vấn kỹ thuật cho bà con nông dânCôngThương - Bước đột phá với NPK một hạt Hiên Bình Điền đã nghiên cứu và sản xuất được loại phân bón NPK một hạt đầu tiên tại Việt Nam với tỷ lệ đạm, lân, kali: 14.8.6, chứa đầy đủ các dưỡng chất thiết yếu nhất đối với cây trồng. Với sản phẩm này, Bình Điền đã tạo bước đột phá đánh dấu sự xuất hiện và khẳng định phân bón NPK của Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại cùng loại về chất lượng và giá cả. Để nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, công ty thành lập Hội đồng cố vấn khoa học kỹ thuật gồm các nhà nông học hàng đầu, nghiên cứu chuyên sâu về đất và dinh dưỡng cây trồng. Từ đó, Bình Điền thành công với sản phẩm NPK cao cấp 20.20.15, sản phẩm được coi là bước đột phá trong thập niên 90 vì đã làm thay đổi cơ bản tập quán sử dụng phân đơn hoặc tự phối trộn sang dùng phân hỗn hợp NPK hàm lượng cao. Sản phẩm được sử dụng rộng khắp tại vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật. Những chính sách thiết thực và cụ thể trong xây dựng hệ thống phân phối đã giúp Bình Điền liên tiếp thành công không chỉ trong nước mà còn vươn ra thị trường thế giới. Công ty đã xuất khẩu được số lượng lớn phân bón sang Campuchia và Myanmar. 2 năm gần đây, công ty đã xuất sang thị trường Campuchia trung bình mỗi năm 100.000 tấn phân bón, với doanh thu khoảng 60 triệu USD/năm. Những năm gần đây, Bình Điền đưa chế phẩm Agrotain của Mỹ vào 2 dòng sản phẩm chính là phân đạm hạt vàng Đầu Trâu 46A+, phân NPK Đầu Trâu TE+ Agrotain, giúp giảm 30% lượng phân bón so với các loại thông thường và giảm chi phí sản xuất. Ứng dụng phát minh của các nhà khoa học Mỹ, Bình Điền đưa ra sản phẩm Đầu Trâu 46P+ với chất Avail bao quanh hạt làm tăng hiệu lực phân lân, giảm lượng bón 30 – 50% so với phân lân DAP thông thường. Đào tạo các chuyên gia” nông dân Ông Lê Quốc Phong - Tổng giám đốc công ty - cho biết: Hệ thống đại lý là người đại diện của công ty tại địa phương. Bình Điền không chỉ bán phân bón mà còn là nhà cung cấp giải pháp trong sản xuất nông nghiệp, giúp nông dân sản xuất ngày càng hiệu quả hơn. Chính vì vậy, đại lý phải là những nhà tư vấn, hiểu thật rành rẽ những sản phẩm hop quy, phan bon npk phân bón của Bình Điền trước khi bán cho nông dân, thu tiền và phải chịu trách nhiệm về chất lượng, đến khi nhà nông thu hoạch xong mùa vụ. Với quan điểm trên, Bình Điền rất chú trọng xây dựng hệ thống đại lý phân phối các cấp, đến cửa hàng bán lẻ phân bón tại địa phương cho tới tận tay người nông dân. Ông Phan Văn Tâm - Giám đốc marketing của Bình Điền - chia sẻ: Công ty chọn cách thức tổ chức tập huấn, đào tạo chủ và nhân viên bán hàng của các đại lý tại các Khóa tập huấn đại lý phân bón Đầu Trâu chuyên nghiệp”, giúp họ trở thành những chuyên gia” tư vấn về phân bón nói chung, phân bón mang thương hiệu Đầu Trâu nói riêng. Kiên trì thực hiện mỗi năm, Bình Điền đã xây dựng được hàng chục ngàn đại lý ở trong và ngoài nước. Bà Trần Thị Hường - đại lý phân bón Bình Điền ở thị trấn Vĩnh Quy, huyện Bắc Qua, tỉnh Hà Giang - phấn khởi: Các thày giảng toàn những điều bổ ích và cần thiết. Những khóa học như thế này rất thiết thực với các đại lý nông dân” như chúng tôi”. Nhiều đại lý ở các tỉnh cho hay, dù kinh doanh phân bón rất nhiều năm nhưng chưa chắc đã nắm hết được về phân bón. Qua các khóa học này, các đại lý đã có hiểu biết cơ bản về phân bón, từ đó tiếp tục hướng dẫn bà con cách bón phân hợp lý, chịu trách nhiệm đến kết quả sản xuất của nông dân khi họ sử dụng các sản phẩm phân bón của mình. Nguyễn Duyên Cán bộ Công ty CP phân bón Bình Điền tư vấn kỹ thuật cho bà con nông dân PHẢN HỒI .. Ông Nguyễn Duy Khuyến - Tổng giám đốc Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao Để giúp nông dân làm giàu, trong thời gian tới, công ty đã thực hiện cơ chế bán phân bón trả chậm cho một số địa phương nhằm giúp bà con nông dân có điều kiện đầu tư, chăm sóc cây trồng, góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục triển khai nhiều mô hình cây trồng và phân bón hiệu quả về cho nông dân sản xuất. Bón phân NPK - S Lâm Thao hợp lý, cây ngô sẽ cho năng suất cao. 1. Một số khái niệm chung Quá trình sinh trưởng, phát triển của ngô chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Từ nảy mầm, ra lá đến xuất hiện mô ở các cơ quan sinh sản. + Thời kỳ nảy mầm từ gieo đến 3 lá thật: - Phụ thuộc nhiều vào chất dinh dưỡng của nội nhũ. - Sau khi có 3 lá thật, lượng dinh dưỡng có trong nội nhũ hạt, cây non chuyển từ sống nhờ dinh dưỡng trong hạt sang tìm kiếm thức ăn từ đất và dinh dưỡng bổ sung. + Thời kỳ từ 3 lá đến phân hóa hoa: Cây ngô cần độ ẩm đất từ 65 – 75%, tơi xốp, đủ oxy cho rễ phát triển… cần đủ dinh dưỡng. Bón thúc kịp thời ở giai đoạn 3 – 4 lá. Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Lá và cơ quan sinh sản phát triển mạnh – xuất hiện nhị cái. + Thời kỳ phân hóa hoa – trỗ cờ: Cây ngô lớn nhanh, phân hóa tạo các bộ phận hoa cờ và bắp – quyết định năng suất ngô. Lá và đốt phát triển nhanh – cuối giai đoạn thoát bông cờ khỏi bẹ lá. Cần bón thúc, kết hợp xới đất và vun luống lên cao cho ngô. + Thời kỳ nở hoa trỗ cờ, tung phấn, phun râu: Diễn ra trong khoảng 10 – 15 ngày, ngô lai tập trung trong khoảng 7 – 10 ngày. Ngô tung phấn, nhận phấn, thụ tinh. Nhiệt độ thích hợp 22 – 28oC, nhiệt độ <13oc và="">35oC hạt phấn mất sức sống và chết. Độ ẩm không khí thích hợp là 80%, độ ẩm đất thích hợp 80% độ ẩm bão hòa. + Thời kỳ chín thụ tinh đến chín: Thời kỳ này kéo dài 30 – 45 ngày tùy từng giống, trong đó: - Chín sữa 10 – 15 ngày, - Chín sáp 10 – 15 ngày, - Chín hoàn toàn 10-15 ngày. Thời kỳ chín, các chất dinh dưỡng vận chuyển từ lá vào hạt; vai trò quang hợp của bộ lá vẫn quan trọng, 60 – 80% sản phẩm quang hợp từ lá vận chuyển vào hạt; yêu cầu nhiệt độ của thời kỳ này là 20 – 25oC, ẩm độ đất là 60 – 70% độ ẩm bão hòa. 2. Đất và thời vụ trồng ngô 2.1 Đất trồng ngô Cây ngô thích nghi với nhiều loại đất khác nhau, nó có thể trồng được trên đất feralit và feralit mùn trên núi cao như ở Quản Bạ, Hà Giang. Ngô sinh trưởng tốt và cho năng suất cao trên đất đen đá vôi cao nguyên Nà Sản, Mộc Châu, Sơn La, ngô cũng cho năng suất cao trên đất phát triển trên đá bazan ở Đăk Lăk. Ở đồng bằng, ngô có thể trồng được và cho năng suất cao trên phù sa sông, đất bạc màu, đất phèn sau 2 vụ lúa. Nhiều diện tích ngô được trồng trên đất bãi bồi ven sông. 2.2 Giống và thời vụ trồng Ngô phân bố rộng trên phạm vi toàn quốc, tùy theo điều kiện khí hậu mà thời vụ gieo trồng ngô khác nhau ở các vùng, song chủ yếu có các vụ chính là: đông xuân, xuân hè và thu đông. 2.2.1. Giống ngô Giống ngô được phân theo 6 nhóm giống: Giống ngô tự thụ phấn, giống ngô lai quy ước, giống ngô lai không quy ước, ngô nếp, ngô đường và ngô rau. Mỗi giống có thời gian sinh trưởng khác nhau ở các vụ trồng trong năm. Dưới đây là một số giống ngô đang được trồng phổ biến hiện nay trong vụ đông với thời gian sinh trưởng như sau: - Nhóm giống ngô tự thụ phấn: - Nhóm giống ngô lai quy ước. - Nhóm giống ngô không quy ước. - Nhóm giống ngô nếp. - Nhóm giống ngô đường. - Ngô rau. 2.2.2. Thời vụ gieo trồng ngô đông - Vụ thu gieo vào cuối tháng 7 đầu tháng 8. - Vụ thu đông ở miền núi nên gieo trước 25.8 để có năng suất cao. - Vụ đông nên kết thúc trồng trước ngày 30.9 chậm nhất đến 5.10 đối với giống ngắn ngày. Đối với vụ đông ở phía Bắc nếu gieo sau 20.9 thì phải làm bầu. 3. Lượng phân bón NPK-S Lâm Thao cho ngô đông bảng. Vào khoảng cuối tháng 6/2012, có một số công nhân ở đội 7, thuộc Công ty cà phê 719, ở xã Ea Kly, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk và một số cơ quan thông tin đại chúng đã đưa tin sai về phân NPK Philip: 16-16-8-13S nghi kém chất lượng do Công ty kinh doanh tổng hợp Vinacafe Quy Nhơn thuộc Tổng Công ty cà phê Việt Nam nhập và độc quyền phân phối ở Việt Nam. Trước sự việc trên, ngày 2/7, Tổng Công ty cà phê Việt Nam đã thành lập Hội đồng kiểm tra, xác định chất lượng phân bón NPK Philip: 16-16-8-13S mà Công ty cà phê 719 đã cung cấp cho bà con nông dân trong thời gian qua. Đồng thời tiến hành lập biên bản lấy 03 mẫu phân NPK Philip, NPK: 16-16-8-13S tại 03 địa điểm. Mẫu số K719-01 lấy tại nhà ông Thọ, mẫu số K719-02 lấy tại đội 3 và mẫu số K719-03 lấy tại trụ sở Công ty cà phê 719 để gửi về Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 để phân tích. Kết quả thử nghiệm ở Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3. Kết quả thử nghiệm do Phó giám đốc Trần Thị Mỹ Hiền khảng định, các thành phần phân NPK Philip, NPK: 16-16-8-13S, ký hiệu K719, K719-01, K719-02, K719-03 đều vượt so với đăng ký. Đó là điều khảng định phân bón NPK Philip, NPK: 16-16-8-13S là phân bón thật có chất lượng cao. Tiếp đó, ngày 30/8, lãnh đạo Sở NN-PTNT tỉnh Đắk Lắk, phòng Nông nghiệp huyện Krông Pắk, xã Ea Kly, Tổng Công ty cà phê Việt Nam, Công ty cà phê 719 và Công ty kinh doanh tổng hợp Vinacafe Quy Nhơn đã có buổi làm việc và đi thực tế những cánh đồng đã bón phân NPK Philip: 16-16-8-13S. Nhìn những cánh đồng lúa chín vàng chuẩn bị đến thời thu hoạch, sẽ cho một vụ bội thu. Khi trao đổi với chúng tôi, Ban lãnh đạo ở Công ty cà phê 719 cho biết: Từ năm 2007 cho đến nay chúng tôi vẫn dùng phân bón do Công ty kinh doanh tổng hợp Vinacafe Quy Nhơn cung cấp phân bón rất tốt cho cây lúa, cây cà phê. Với kinh nghiệm sản xuất lúa ở Công ty, chúng tôi nhận thấy bón phân NPK Philip, NPK:16-16-8-13S cho cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh, bộ rễ ăn sâu và có nhiều rễ trắng, cây lúa cứng. Nhờ đó mà cây lúa sinh trưởng phát triển tốt, đẻ nhánh sớm, lúa đẻ khỏe, trỗ bông và chín tập trung, chín đều với một màu vàng đẹp. Nhìn bộ lá rất ưng mắt, có thể do hàm lượng dinh dưỡng trong phân bón hợp lý nên màu lá xanh bền. Lá lúa dầy, cứng, bản lá to, đứng lá, số nhánh hữu hiệu tăng. Sử dụng phân bón NPK Philip, NPK: 16-16-8-13S năng suất lúa tăng lên rõ rệt. Ông Trịnh Tiến Bộ - Trưởng phòng trồng trọt rất đồng tình với cách làm của Tổng Công ty Cà phê Việt Nam là làm kịp thời để bảo vệ cho người tiêu dùng. Ông Đoàn Doãn Toản – Phó phòng Nông nghiệp huyện Krông Pắk yêu cầu Công ty Kinh doanh Tổng hợp Vinacafe Quy Nhơn tiếp tục cung ứng phân bón cho bà con nông dân trong huyện. CôngThương - Đây là đánh giá của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khi đến thăm nhà máy ngày 2/11/2013 vừa qua. Sau hơn 9 tháng nỗ lực trên công trường đầy nắng gió ở Khu công nghiệp Tằng Loỏng, huyện Bảo Thắng, Lào Cai, Công ty Apromaco đã chính thức đưa Nhà máy sản xuất NPK đi vào hoạt động, cho ra những loạt sản phẩm NPK đầu tiên mang thương hiệu Apromaco. Sản phẩm NPK ra đời khẳng định bước đi vững chắc của DN trong quá trình hoàn thiện Bộ sản phẩm phân bón Cho mùa vàng bội thu” của Apromaco gồm: " Kali CIS đỏ tự nhiên, SA Kim cương Nhật Bản, DAP xanh Ngọc Vân Thiên Hóa, Supe lân và NPK Lào Cai chất lượng cao". Hiện tại, dây chuyền sản xuất NPK tại Nhà máy Apromaco Lào Cai là một trong những dây chuyền công nghệ hiện đại nhất ở Việt Nam với chất lượng thiết bị vượt trội so với các nhà máy NPK khác. Dây chuyền có thể chạy vượt 120% công suất thiết kế, tỷ lệ thành phẩm công đoạn đầu lên đến 80-85%, sản xuất ra sản phẩm NPK mỗi hạt một mầu, trong đó chứa đựng tất cả các hàm lượng hữu hiệu của Nito, P2O5 và Kali là những yếu tố dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng. TS Phùng Hà – Cục trưởng Cục Hóa chất: Hai dự án sản xuất lân và NPK của Công ty Apromaco góp phần vào phần cung của nền sản xuất phân bón cả nước. Đặc biệt, dây chuyền sản xuất NPK được hoàn thành và đi vào hoạt động sẽ góp phần tích cực vào sự phát triển của nền nông nghiệp. Sản phẩm ra đời sẽ góp phần làm giá phân NPK trên thị trường giảm, hỗ trợ nông dân tăng hiệu quả sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng cho sản xuất nông nghiệp, bình ổn giá phân bón. Chất lượng sản phẩm đạt ổn định với NPK 5-10-3 màu ghi sáng bóng đặc trưng, dạng viên tròn, đồng đều, độ chắc cao, không mạt. Dây chuyền cũng sẽ đảm nhận việc sản xuất supe lân hạt để xuất khẩu hop quy, phan bon npk theo đơn đặt hàng từ các khách hàng Nhật Bản, Đài Loan.. Theo Ông Nguyễn Tiến Dũng – Tổng giám đốc Apromaco, nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng và phục vụ tốt cho vụ Đông Xuân sắp tới, công ty đã chỉ đạo các Phòng, Ban của Apromaco và Nhà máy Supe lân và NPK Lào Cai tập trung toàn bộ nguồn nhân lực và vật tư, nguyên liệu, trang thiết bị để đảm bảo sản xuất 100% công suất supe lân và 100% công suất NPK trong thời gian từ nay đến Tết Nguyên Đán. Apromaco đã và đang nỗ lực tạo ra các sản phẩm phân bón có chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp trong nước với nhiều lợi thế mà không đơn vị nào có thể có được. Nguyên liệu chính để sản xuất supe lân lấy từ khu mỏ apatit Phú Nhuận được Chính Phủ cấp phép cho Apromaco khai thác, các nguyên liệu khác: Urea, SA, Kali, acid Sulphuaric... Đều được Apromaco trực tiếp nhập khẩu từ nước ngoài, Với sự ra đời thành công sản phẩm NPK, Công ty Apromaco ngày càng chứng tỏ được chiến lược, hướng đi đúng đắn, dần từng bước phát triển vững chắc trở thành DN lớn mạnh, góp phần vào sự phát triển nền nông nghiệp nước nhà. Lâm Hiếu PHẢN HỒI .


CôngThương - Đây là đánh giá của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khi đến thăm nhà máy ngày 2/11/2013 vừa qua. Sau hơn 9 tháng nỗ lực trên công trường đầy nắng gió ở Khu công nghiệp Tằng Loỏng, huyện Bảo Thắng, Lào Cai, Công ty Apromaco đã chính thức đưa Nhà máy sản xuất NPK đi vào hoạt động, cho ra những loạt sản phẩm NPK đầu tiên mang thương hiệu Apromaco. Sản phẩm NPK ra đời khẳng định bước đi vững chắc của DN trong quá trình hoàn thiện Bộ sản phẩm phân bón Cho mùa vàng bội thu” của Apromaco gồm: " Kali CIS đỏ tự nhiên, SA Kim cương Nhật Bản, DAP xanh Ngọc Vân Thiên Hóa, Supe lân và NPK Lào Cai chất lượng cao". Hiện tại, dây chuyền sản xuất NPK tại Nhà máy Apromaco Lào Cai là một trong những dây chuyền công nghệ hiện đại nhất ở Việt Nam với chất lượng thiết bị vượt trội so với các nhà máy NPK khác. Dây chuyền có thể chạy vượt 120% công suất thiết kế, tỷ lệ thành phẩm công đoạn đầu lên đến 80-85%, sản xuất ra sản phẩm NPK mỗi hạt một mầu, trong đó chứa đựng tất cả các hàm lượng hữu hiệu của Nito, P2O5 và Kali là những yếu tố dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng. TS Phùng Hà – Cục trưởng Cục Hóa chất: Hai dự án sản xuất lân và NPK của Công ty Apromaco góp phần vào phần cung của nền sản xuất phân bón cả nước. Đặc biệt, dây chuyền sản xuất NPK được hoàn thành và đi vào hoạt động sẽ góp phần tích cực vào sự phát triển của nền nông nghiệp. Sản phẩm ra đời sẽ góp phần làm giá phân NPK trên thị trường giảm, hỗ trợ nông dân tăng hiệu quả sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng cho sản xuất nông nghiệp, bình ổn giá phân bón. Chất lượng sản phẩm đạt ổn định với NPK 5-10-3 màu ghi sáng bóng đặc trưng, dạng viên tròn, đồng đều, độ chắc cao, không mạt. Dây chuyền cũng sẽ đảm nhận việc sản xuất supe lân hạt để xuất khẩu theo đơn đặt hàng từ các khách hàng Nhật Bản, Đài Loan.. Theo Ông Nguyễn Tiến Dũng – Tổng giám đốc Apromaco, nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng và phục vụ tốt cho vụ Đông Xuân sắp tới, công ty đã chỉ đạo các Phòng, Ban của Apromaco và Nhà máy Supe lân và NPK Lào Cai tập trung toàn bộ nguồn nhân lực và vật tư, nguyên liệu, trang thiết bị để đảm bảo sản xuất 100% công suất supe lân và 100% công suất NPK trong thời gian từ nay đến Tết Nguyên Đán. Apromaco đã và đang nỗ lực tạo ra các sản phẩm phân bón có chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp trong nước với nhiều lợi thế mà không đơn vị nào có thể có được. Nguyên liệu chính để sản xuất supe lân lấy từ khu mỏ apatit Phú Nhuận được Chính Phủ cấp phép cho Apromaco khai thác, các nguyên liệu khác: Urea, SA, Kali, acid Sulphuaric... Đều được Apromaco trực tiếp nhập khẩu từ nước ngoài, Với sự ra đời thành công sản phẩm NPK, Công ty Apromaco ngày càng chứng tỏ được chiến lược, hướng đi đúng đắn, dần từng bước phát triển vững chắc trở thành DN lớn mạnh, góp phần vào sự phát triển nền nông nghiệp nước nhà. Lâm Hiếu PHẢN HỒI. Ông Nguyễn Duy Khuyến - Tổng giám đốc Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao Để giúp nông dân làm giàu, trong thời gian tới, công ty đã thực hiện cơ chế bán phân bón trả chậm cho một số địa phương nhằm giúp bà con nông dân có điều kiện đầu tư, chăm sóc cây trồng, góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục triển khai nhiều mô hình cây trồng và phân bón hiệu quả về cho nông dân sản xuất. CôngThương - Theo Tập đoàn Hóa chất Việt hop quy, phan bon npk Nam Vinachem, 9 tháng đầu năm, có 2 loại phân bón tăng so với cùng kỳ gồm: Phân lân nung chảy đạt 437.034 tấn, tăng 5,6%; phân đạm ure đạt 334.889 tấn, tăng 130,9% do Nhà máy Đạm Ninh Bình đi vào hoạt động. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ, gồm: Phân Supe lân đạt 748.880 tấn, giảm 3,7%; phân DAP đạt 184.126 tấn, giảm 9,9%; phân NPK đạt 1.361.983 tấn giảm 0,4%. Lượng tiêu thụ cũng tăng so với cùng kỳ: Phân Supe lân đạt 511.006 tấn, tăng 14,8%; phân lân nung chảy đạt 392.234 tấn, tăng 3,6%; phân đạm ure đạt 303.735 tấn, tăng 106,2%. Phân NPK đạt 1.540.689 tấn, tăng 1%. Riêng chỉ có sản phẩm phân DAP chỉ đạt 173.172 tấn, giảm 12% so với cùng kỳ do khó cạnh tranh được với DAP giá rẻ từ Trung Quốc. Hầu hết tồn kho sản phẩm ở mức khá cao so với cùng kỳ trừ mặt hàng phân lân. Tính đến hết 30/9, lượng tồn kho cụ thể như sau: Phân đạm ure tồn kho 84,6 nghìn tấn, tăng 80 nghìn tấn so với cùng kỳ, tăng 445,8% so với 01/01/2013; phân DAP tồn kho 63 nghìn tấn, tăng 22,1% so với cùng kỳ, tăng 53,6% so với 01/01/2013; phân NPK tồn kho 250 nghìn tấn, tăng 9% so với cùng kỳ, giảm 18,3% so với 01/01/2013. Một số sản phẩm tồn kho giảm so với cùng kỳ như: Phân lân chế biến tồn kho 325 nghìn tấn, giảm 8,5% so với cùng kỳ, bằng 93,9% so với 01/01/2013. Tuy nhiên, Vinachem cũng khẳng định, lượng tồn kho này không đáng ngại bởi tới đây khi bước vào vụ Đông Xuân, phân bón sẽ tiêu thụ mạnh trở lại. Hiện các đơn vị đều chủ động điều tiết sản xuất - tiêu thụ - tồn kho để chuẩn bị hàng gối vụ. Nguyễn Duyên PHẢN HỒI. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, với năng suất 2 tấn/ha, cây hồ tiêu lấy đi của đất: 70 kg N; 26 kg P­ 2 O 5 ; 42 kg K 2 O; 18 kg MgO; 67 kg CaO và các chất dinh dưỡng vi lượng như Fe, Mn, S, Zn, Bo…. Thực tế, đất đai ở Tây Nguyên thường là chua, pH thấp từ 3,8- 4,2 lại rất nghèo chất canxi, lưu huỳnh, Bo và những chất vi lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cây Hồ tiêu phát triển được trên đất có pH từ 4,5 - 7, tối ưu là 5,5 - 6,5. Bón phân đa yếu tố ĐYT NPK của Công ty Cổ phần Phân lân nung chảy Văn Điển, cây trồng không những được cung cấp cân đối, đồng thời các chất dinh dưỡng đa lượng Đạm, Lân, Kali mà còn được cung cấp bổ sung thêm các chất trung lượng như Canxi, Magiê, Silíc và các chất vi lượng Bo, đồng, côban, molipđen... Rất cần thiết cho cây trồng mà các loại phân bón khác không có. Đặc biệt phân Văn Điển có pH từ 8- 8,5 nên khi bón sẽ cải tạo nâng cao pH đất, là nguồn dự trữ dinh dưỡng cung cấp từ từ đầy đủ cho cây. Hồ tiêu được bón NPK Văn Điển tránh được các bệnh đốm lá, héo rụng lá, thối rễ, cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, hương vị thơm ngon Bón phân đa yếu tố NPK Văn Điển, cây trồng phát triển khỏe, phát triển cân đối, hạn chế sâu bệnh, chịu hạn, chịu rét tốt, cây tiêu cho năng suất cao, chất lượng nông sản tốt. Bón phân đa yếu tố NPK Văn Điển, làm cho đất ngày càng màu mỡ, giảm phèn, giảm rong rêu. Phân bón dùng cho cây hồ tiêu: - Phân NPK 12.8.12 N=12%; P 2 O 5 =8%; K 2 O=12%; S=3%; MgO=8%; CaO=15%; SiO 2 =13 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co… - Phân NPK 16.6.16 N=16%; P 2 O 5 =6%; K 2 O=16%; S=2%; MgO=5%; CaO=8%; SiO 2 =7 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co… Thời kỳ bón Liều lượng bón Cách bón Trồng mới 400-500kg NPK 12.8.12 Phân NPK Văn Điển loại 12.8.12 trộn đều đất trong hố trước khi đặt bầu Năm thứ 2 1.000 – 1.200kg NPK 12.8.12 Phân NPK Văn Điển được chia bón 3-4 lần vào các thời điểm. Khi cây tiêu ra hoa, khi cây đã đậu quả và bón sau thu hoạch Năm thứ 3 1.600-1.800kg NPK 12.8.12 Thời kỳ kinh doanh 2.200 - 2.500kg NPK 16.6.16 Chú ý: Khi đất đủ ẩm, rải đều phân NPK Văn Điển chung quanh tán cây tiêu, xăm xới nhẹ lấp đất kín phân, tránh làm đứt rễ tiêu. Hồ tiêu được bón phân ĐYT NPK Văn Điển sẽ tránh được các bệnh đốm lá, héo rụng lá, bệnh thối rễ, cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, hương vị thơm ngon hơn bón phân thông thường do được cung cấp cân đối dinh dưỡng đa lượng, trung lượng và vi lượng. CÔNG TY CP PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN - Đơn vị đạt 4 danh hiệu Anh hùng - Giải thưởng Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO - DN phân bón duy nhất đạt TOPTEN Thương hiệu Việt 2011 - TOPTEN Sản phẩm vàng Việt Nam 2012 - Địa chỉ: Đường Phan Trọng Tuệ, Thanh Trì, Hà Nội - Điện thoại: 043.688.4489 - Fax: 043.688.4277 - Website: vafco.vn Chúc bà con nông dân có những mùa vàng bội thu! .. Nở rộ quy mô nhỏ Theo ông Lê Quốc Phong, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam, trước đây, muốn sản xuất phân NPK trộn, các DN đều phải trông chờ vào nguồn nguyên liệu NK. Do đó, phải là DN có vốn lớn mới dám sản xuất loại phân bón này. Nhưng từ khi đạm Cà Mau được tung ra thị trường, nguồn nguyên liệu trong nước đã có sẵn tại chỗ, mua ở đâu cũng có nên các cơ sở sản xuất NPK quy mô nhỏ đã ồ ạt ra đời. Theo thống kê của phòng Marketting Cty CP Phân bón Bình Điền, chỉ riêng ở thị trường Miền Nam đã có đến 61 cơ sở sản xuất phân NPK quy mô nhỏ, đưa sản phẩm ra thị trường, chủ yếu là các sản phẩm trộn, với công thức thông thường nhất là 20-20-15+TE và 16-16-8+TE. Một điểm kihnh doanh phân bón ở Long An Tại sao các nhà sản xuất nhỏ lại tập trung vào 2 loại NPK này? Khi nghe tôi hỏi, chủ một DN phân bón nhỏ ở Bình Dương, thổ lộ: Nông dân Nam bộ chỉ quan tâm tới NPK 20-20-15 hay 16-16-8. Cứ thấy trên bao bì có ghi 1 trong 2 công thức nói trên, là họ quan tâm liền. Bởi thế, những DN nhỏ, chưa có tên tuổi trên thị trường, nếu muốn bán NPK, nhất định phải làm 20-20-15 hay 16-16-8”. Thực trạng DN sản xuất NPK quy mô nhỏ ồ ạt ra đời như nấm sau mưa còn thể hiện rất rõ ở chỗ nhiều DN, cơ sở trước đây vốn chỉ làm giống, thuốc BVTV hay phân hữu cơ, giờ cũng nhảy sang làm NPK. Nhiều cơ sở vốn chỉ làm đại lý phân phối sản phẩm NPK cho các công ty lớn, giờ cũng mua máy móc về tự phối trộn, đóng bao đem bán. Ông Nguyễn Tấn Đạt, GĐ Cty CP Phân bón Miền Nam cho hay, hiện có 16 đại lý đang tự tổ chức sản xuất phân NPK, 4 đại lý liên kết sản xuất với đơn vị khác. Do quá nhiều DN, cơ sở sản xuất phân NPK ra đời, nên trên thị trường cũng đã xuất hiện nhiều DN chuyên sản xuất, cung ứng chất độn cho các DN, cơ sở sản xuất NPK. Tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng các DN sản xuất NPK quy mô nhỏ lại đang lấn sân DN lớn trên thị trường nội địa, bởi sản phẩm của họ có giá bán rẻ hơn. Theo ông Nguyễn Tấn Đạt, phân NPK hiện đang chiếm tới khoảng 50% giá trị đầu tư phân bón cho sản xuất nông nghiệp. Mấy năm nay, thị phần của các DN lớn về sản xuất NPK đang giảm mạnh. Như Cty Phân bón miền Nam trong năm 2012 tiêu thụ gần 80 ngàn tấn NPK. 8 tháng đầu năm nay, chỉ mới bán được xấp xỉ 50 ngàn tấn. Cty Phân bón Bình Điền chỉ còn chiếm gần 40% thị phần phân NPK ở ĐBSCL. Trong khi đó, các DN nhỏ lại đang gia tăng mạnh về sản lượng cũng như thị phần. Ông Đạt ước tính 60% thị phần NPK hiện đang thuộc về các DN nhỏ. Làm giả chính mình Điều đáng nói là phần nhiều các DN sản xuất NPK quy mô nhỏ đang làm phân bón kém chất lượng. Theo một cán bộ ở Cục Cảnh sát Kinh tế Bộ Công an, nhiều DN đang sản xuất phân bón, nhất là phân trộn NPK với chất lượng thực tế kém xa so với chất lượng đăng ký ghi trên bao bì. Lâu nay, chúng ta vẫn gọi đây là loại phân bón kém chất lượng, nhưng đúng ra, phải gọi đây là phân bón giả, hay nói cho đầy đủ và chính xác là phân bón mà nhiều DN làm giả của chính mình. Những DN làm ăn kiểu này thường là các DN có quy mô nhỏ. Ông Nguyễn Tiến Dũng, TGĐ Cty CP Vật tư Nông sản, cũng cho hay, trên thị trường thời gian qua cũng xuất hiện một số loại phân bón tổng hợp, đặc biệt là NPK với hàm lượng thấp, nhưng lại đóng bao ghi các hàm lượng hữu hiệu cao hơn để bán cho nông dân nhằm thu tiền với giá cao. Đây chính là loại phân bón kém chất lượng và ở khía cạnh nào đó, cũng có thể coi là phân bón giả. Việc làm này là hành vi lừa đảo, trục lợi dẫn tới người nông dân bỏ tiền thật mua hàng giả, khiến cho chi phí sản xuất nông nghiệp bị đội lên cao. Theo ông chủ DN phân bón ở Bình Dương đã nhắc tới ở trên, nhiều DN, cơ sở nhỏ đã lợi dụng việc quy định ghi nhãn bao bì sản phẩm còn chưa chặt chẽ, nên thường tìm cách lập lờ đánh lừa nông dân và để qua mặt cơ quan chức năng đối với các sản phẩm làm giả của chính mình. Chẳng hạn, trên bao bì cứ cho in hàng chữ to tên sản phẩm là NPK 20-20-15 để nông dân lầm tưởng đó là phân 20-20-15, mà không để ý tới dòng chữ rất nhỏ ghi thành phần đăng ký với hàm lượng thấp hơn nhiều. Nếu dân có khiếu nại, DN hay cơ sở đó sẽ cãi ngay NPK 20-20-15 chỉ là tên của sản phẩm, còn chất lượng đăng ký thì đã ghi ở bên dưới. Trong khi đó, nếu đem xét nghiệm kỹ càng, chất lượng thực tế của loại phân đó, vẫn còn thấp hơn so với thành phần đăng ký. Điều đáng lo ngại là dạng phân bón làm giả chính mình, hiện đang khá phổ biến trên thị trường. Bởi như đã nói ở trên, phân bón NPK do các DN, cơ sở nhỏ sản xuất, hiện đang chiếm tới 60% thị phần NPK cả nước. Mà phần lớn các DN, cơ sở này đang sản xuất phân NPK với chất lượng chỉ bằng 75-80% so với chất lượng đăng ký trên bao bì. Như vậy đã đủ thấy nông dân đang bị thiệt hại rất lớn về tiền bạc, bởi bỏ tiền ra mua phân với chất lượng này nhưng thực tế lại chỉ nhận được phân với chất lượng khác, thấp hơn. Tuy vậy, tình trạng trên cũng có nguyên nhân từ chính các ... Nhà sản xuất phân bón nghiêm túc và từ quản lý Nhà nước đối với ngành hàng phân bón. Bởi khi sử dụng một số lô hàng phân bón mà chất lượng thực tế thấp hơn so với chất lượng đăng ký công bố trên bao bì, năng suất cây trồng của nông dân vẫn không giảm. Điều này cho thấy phân bón đúng chất lượng đang bị dư về hàm lượng so với nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng. Nhiều DN sản xuất phân bón nhỏ đã phát hiện ra điều này nên đã tổ chức sản xuất phân bón có hàm lượng thấp hơn so với hàm lượng ghi trên bao bì, mà vẫn bán được hàng vì nông dân thấy dùng phân ấy cây trồng vẫn tốt. Về quản lý Nhà nước, hiện nay chỉ tổ chức kiểm tra, xử phạt phân bón giả, phân kém chất lượng ở các đại lý. Đây là kiểu kiểm tra phần ngọn, nên không thể triệt được tận gốc tình trạng sản xuất phân bón kém chất lượng đang tràn lan hiện nay. 1. Đặc điểm sinh thái và nhu cầu dinh dưỡng của cây hồ tiêu: Cây hồ tiêu thích nghi trồng trên đất tôi xốp, dễ thoát nước, nhiều mùn và có độ pH gần trung tính. Trong điều kiện đất chua pH thấp, cây hồ tiêu dễ bị các loại bệnh về rễ và thường cho năng suất thấp. Cây hồ tiêu phát triển được trên đất có pH từ 4,5 - 7, tối ưu là 5,5 - 6,5.Nhu cầu dinh dưỡng của cây hồ tiêu: Với mật độ khoảng 1.750 trụ/ha, mỗi năm cây tiêu hút từ đất một lượng dinh dưỡng là 250kg đạm N, 35kg P2O5, 205kg K2O, 45kg CaO và 20kg MgO. Như vậy nhu cầu về đạm, kali của hồ tiêu cao hơn so với lân, ngoài các chất dinh dưỡng đa lượng N, P, K, cây hồ tiêu rất cần hút các nguyên tố trung và vi lượng trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển, do các chất này có vai trò rất lớn trong việc tạo năng suất, chống chịu sâu bệnh hại và tăng phẩm chất, hương vị của tiêu. Việc bổ sung phân hữu cơ nhằm tăng hàm lượng mùn trong đất, giúp đất tơi xốp, thông thoáng để có bộ rễ khỏe mạnh là rất quan trọng đối với cây hồ tiêu.+ Canxi CaO: Rất cần cho cây tiêu sử dụng, vừa là nguyên tố dinh dưỡng trung lượng, vừa là nguyên tố phòng, chống bệnh, cải thiện độ chua của đất tăng khả năng kháng bệnh ở rễ tiêu.+ Magiê MgO: Có tác dụng khử chua và cải tại đất như canxi, hơn nữa nó là chất thiết yếu tạo nên diệp lục tố của cây, giúp cây trồng tổng hợp protein, sinh trưởng mạnh mẽ, xanh tốt, trái to, chắc hạt, chống chọi tốt với mùa khô hạn, tăng khả năng đề kháng cho cây, chống được bệnh nám mặt lá ở cây.+ Silíc SiO2: Giúp cho cây tăng khả năng ôxy hóa, làm cứng thành vách tế bào do Silic nằm trong thành phần cellulose của thành tế bào, chống lại sâu bệnh hại, đặc biệt là rệp và bệnh thối đầu lá, tăng khả năng quang hợp.+ Lưu huỳnh S: Thiếu lưu huỳnh sẽ gây ra bệnh bạc lá và làm giảm năng suất, chất lượng tiêu rất rõ. Do đất Tây Nguyên quá thiếu nên phải chú ý để cung cấp bổ sung cho cây.+ Bo: Là nguyên tố vi lượng rất quan trọng. Thiếu bo là nguyên nhân dẫn đến hoa kém phát triển, sức sống của hạt phấn kém, tỷ lệ đậu quả thấp, tầng rời ở cuống và quả không phát triển đầy đủ nên quả non dễ bị rụng. + Kẽm Zn, Mangan Mn: Tham gia vào quá trình quang hợp, trao đổi chất… thiếu chúng các chức năng tế bào của cây bị suy yếu, rất dễ bị nhiễm bệnh, sâu phá hại.2. Phân bón NPK Văn Điển thích hợp cho cây hồ tiêu:+ Loại phân bón sử dụng: Phân NPK hợp quy, phân bón npk 12.8.12: N=12%; P2O5=8%; K2O=12%; S=3%; MgO=8%; CaO=15%; SiO2=13 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co… tổng dinh dưỡng trên 71%. Phân NPK 16.6.16: N=16%; P2O5=6%; K2O=16%; S=2%; MgO=5%; CaO=8%; SiO2=7 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co… tổng dinh dưỡng trên 60%.+ Liều lượng và cách bón ĐVT kg/ha: Trồng mới: 400-500kg NPK 12.8.12 phân NPK Văn Điển loại 12.8.12 trộn đều đất trong hố trước khi đặt bầu.Năm thứ 2: 1.000 - 1.200kg NPK 12.8.12. Phân NPK Văn Điển được chia bón 3-4 lần vào các thời điểm. Khi cây tiêu ra hoa, khi cây đã đậu quả và bón sau thu hoạch. Năm thứ 3: 1.600-1.800kg NPK 12.8.12. Thời kỳ kinh doanh: 2.200 - 2.500kg NPK 16.6.16Chú ý: Khi đất đủ ẩm, rải đều phân NPK Văn Điển xung quanh tán cây tiêu, xăm xới nhẹ lấp đất kín phân, tránh làm đứt rễ tiêu.Bón phân đa yếu tố ĐYT NPK của Công ty cổ phần Phân lân nung chảy Văn Điển, cây hồ tiêu không những được cung cấp cân đối, đồng thời các chất dinh dưỡng đa lượng đạm, lân, kali mà còn được cung cấp bổ sung thêm các chất trung lượng như canxi, magiê, silíc và các chất vi lượng bo, đồng, côban, molipđen... Rất cần thiết cho cây mà các loại phân bón khác không có. Đặc biệt, phân Văn Điển có pH từ 8- 8,5 nên khi bón sẽ cải tạo nâng cao pH đất, là nguồn dự trữ dinh dưỡng cung cấp từ từ đầy đủ cho cây. Hồ tiêu được bón phân ĐYT NPK Văn Điển sẽ tránh được các bệnh đốm lá, héo rụng lá, bệnh thối rễ, cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, hương vị thơm ngon hơn bón phân thông thường. - Các nghiên cứu khoa học về bón phân cho cây lúa cho thấy, để đạt năng suất bình quân 8 tấn thóc/ha, cây lúa lấy đi từ đất khoảng 145kgN; 60kg P2O5; 150kg K2O, 250kg SiO2, 23kg MgO, 20kg CaO, 5kg S, 2kg Fe, 200g Zn, 150g B và 150g Cu trên mỗi ha.Như vậy thực tế cây lúa không chỉ cần 3 chất dinh dưỡng là đạm N lân P2O5, kali K2O mà còn cần silic nhiều hơn cả đạm, magiê MgO, vôi CaO, lưu huỳnh S với số lượng đáng kể, đồng thời các chất vi lượng như kẽm Zn, Bo B, sắt Fe và đồng Cu.Qua khảo sát thực tế lúa vụ xuân ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Hồng và trung du Bắc Bộ cho thấy, ở địa phương nào bà con nông dân sử dụng phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển đã giải quyết được 3 vấn đề lớn tồn tại trong sản xuất lúa hiện nay là: Giảm thiểu sâu bệnh gây hại, giảm thuốc trừ sâu, giảm lúa đổ ngã khi gặp mưa dông và năng suất lúa ngày càng tăng.Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng cho cây lúa khác biệt các loại phân bón NPK thông thường ở chỗ: Ngoài các yếu tố dinh dưỡng đa lượng NPK giống như các loại phân bón NPK thông thường, Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển còn có đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng trung lượng như: Silic, magiê, can xi, lưu huỳnh chiếm tỷ lệ lớn trong phân bón, đồng thời các chất vi lượng kẽm, bo, sắt, đồng cũng rất cân đối. Bón phân NPK Văn Điển tức là đồng thời cung cấp đầy đủ một lúc 13 yếu tố dinh dưỡng cho cây lúa. Tất cả các yếu tố dinh dưỡng trong phân bón NPK Văn Điển đều được cây lúa hấp thụ dễ dàng và hầu như không bị rửa trôi trong nước.Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển cho lúa có các loại: NPK 6.11.2 và NPK5.10.3 dùng để bón lót trước khi cấy hoặc gieo sạ. NPK 16.5.17 dùng để bón thúc với hàm lượng các chất dinh dưỡng trong các loại phân trên như sau:- NPK 6.11.2 N = 6%; P = 11%; K = 2%; MgO = 10%; SiO2 = 15%; CaO = 20%; S = 2% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 66%.- NPK 5.10.3 N = 5%; P = 10%; K = 3%; MgO = 8%; SiO2 = 15%; CaO = 15%; S = 1% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 58%.- NPK 16.5.17 N = 16%; P = 5%; K = 17%; MgO = 5%; SiO2 = 7%; CaO = 8%; S = 1% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 59%.Với cách bón trước khi cấy hoặc trước khi gieo sạ hàng, mỗi sào Bắc Bộ 360m2 được bón từ 20-25kg NPK6.11.2 hoặc sử dụng loại NPK5.10.3. Sau khi cấy khoảng 2 tuần khi lúa ra lá mới lá nõn chuối thì bón thúc 12-15 kg NPK 16.5.17, đối với lúa gieo sạ hàng thì được bón thúc ngay khi lúa có 3-4 lá.- Với chủng loại và cách bón như trên, phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển đã cung cấp đầy đủ cân đối tất cả các yếu tố dinh dưỡng mà cây lúa cần trong suốt thời gian sinh trưởng. Vì vậy cây lúa khỏe phát triển nhanh cân đối, đẻ nhánh gọn, cứng cây, dày lá, lá xanh sáng, các đối tượng sâu bệnh gây hại như cuốn lá nhỏ, rầy nâu, đạo ôn giảm 70-80% trên đồng ruộng. Khi thu hoạch, lá đòng vàng như lá gừng, lúa cứng cây không đủ ngã, hạt mẩy, vỏ hạt thóc sáng, năng suất cao, đặc biệt người trồng lúa giảm sử dụng thuốc trừ sâu, giảm công chăm bón và tăng thu nhập do lúa đạt năng suất cao và chất lượng tốt. P.V. Những ngày đầu năm mới Canh Dần 2010, công nhân làm việc ở các dây chuyền sản xuất của nhà máy rất hối hả, khẩn trương. Những chiếc ô tô tải xếp từng hàng dài ra vào để bốc xếp và vận chuyển phân bón. Các dây chuyền sản xuất chạy hết công suất để chuẩn bị đủ lượng phân bón cho cây cà phê, hồ tiêu, cao su ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Thượng tá Huỳnh Nghĩa, Chủ tịch hội đồng quản trị công ty tự tin cho biết: Thương hiệu phân bón NPK nhãn hiệu Con trâu ngày nay đã trở thành thương hiệu uy tín trên thị trường, đạt được nhiều danh hiệu và giải thưởng lớn như: Giải thưởng chất lượng Việt Nam, giải thưởng Bông lúa vàng, Cúp vàng nông nghiệp Việt Nam... Năm qua, doanh thu của công ty đạt 900,183 tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 17,206 tỉ đồng, dự kiến chia cổ tức 17%/cổ phiếu/năm, trong đó 12% là tiền mặt, 5% là cổ phiếu. Có được kết quả đáng mừng trên là do công ty bám sát nhu cầu nhà nông và nhạy bén trong việc dự báo thị trường. Khi giá phân bón trên thị trường thế giới tăng cao, công ty chủ trương mua nguyên liệu vừa đủ cho sản xuất, không sản xuất phân gối vụ với khối lượng lớn như những năm trước. Do đó đã giảm được mức độ thiệt hại khi giá phân bón trên thị trường biến động. Thượng tá Đỗ Văn Ngọc, Giám đốc công ty cho biết: Năm qua, Hội đồng quản trị và ban giám đốc công ty đã có nhiều giải pháp mở rộng thị trường và chọn lọc một số đại lý để bán cổ phần. Công ty đã kết hợp hài hòa lợi ích của cổ đông, lợi ích của nhà đầu tư, lợi ích của cán bộ công nhân viên và lợi ích của cộng đồng trong mọi hoạt động. Biện pháp này đã làm thay đổi hẳn cách làm, cách nghĩ trong hoạt động sản xuất, mua bán cũng như mối quan hệ giữa nhà sản xuất và người bán hàng. Quyền lợi của các đại lý, cổ đông luôn được công ty quan tâm. Nhờ vậy các đại lý nêu cao trách nhiệm, tự giác tiếp thị, quảng bá sản phẩm và hình ảnh công ty một cách hiệu quả nhất. Hàng trăm đại lý trải đều từ miền Trung, Tây Nguyên đến các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đang cùng công ty thực hiện chiến lược kinh doanh, mở rộng thị phần rộng lớn và vững chắc ở những địa bàn trọng điểm. Năm nay công ty mở rộng thị trường ra các tỉnh phía Bắc như Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương. Hiện nay, công ty sản xuất trên 100 mặt hàng phân chuyên dùng, phân bón NPK thông dụng, phân bón hữu cơ; phân chuyên dùng cho lúa, cà phê, cao su, các cây hoa màu, cây ăn trái… Hàng chục ngàn tấn sản phẩm của công ty đã xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Ô-xtrây-li-a, Cam-pu-chia. Đặc biệt, năm qua công ty đã phối hợp với cán bộ khuyến nông ở các địa phương tổ chức hàng trăm buổi hội thảo với bà con nông dân. Qua các buổi hội thảo, công ty giới thiệu chất lượng sản phẩm và hướng dẫn bà con phương pháp, quy trình, cách sử dụng phân bón hiệu quả nhất, nhằm tiết kiệm chi phí cho bà con nông dân. Bài và ảnh: Huy Võ .

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét